Cừu Tarasconnaise

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tarasconnaise

Cừu Tarasconnaise là một giống cừu mộc mạc của Pháp (không thuộc đối tượng buôn bán) có nguồn gốc từ các vùng Pyrenees trong Ariege, Hautes-PyreneesHaute-Garonne. Nó có kỹ năng nuôi con tuyệt vời và khả năng để sống ở vùng núi và khả năng làm mẹ tốt. Nó là sự hỗ trợ thiết yếu của sản xuất trong nước của các con chiên thịt của các khối núi Pyrenean ở vùng Midi-Pyrénées và loài chính được sử dụng để sản xuất thịt cừu từ Pyrenees (nhãn hiệu).

Các con cừu Tarasconnaise là một trong những giống cừu được phát tích từ một dân số ban đầu chiếm lĩnh khối núi Pyrene. Những đặc điểm quan trọng là luôn luôn dựa trên sự tồn tại của một nhóm cừu Pyrenean là những con được tìm thấy trong các con cừu Tarasconnaise như trong giống Pyrenean khác (cừu Lourdaise, cừu Basco-Béarnaise, cừu Manech vv). Cừu Tarasconnaise được công nhận là một giống kể từ năm 1930.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng là một giống cừu có kích thước trung bình: 65 cm đến vai và 60 kg cho cừu, 80 cm và 80 kg cho cừu đực. Các con đực có sừng kéo dài xoắn ốc, cừu thuần chủng luôn vặn lại có sừng hơi tròn. Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt.

Từng có ghi nhận 200 con cừu nhảy vực đến chết vì bị gấu truy đuổi. Đàn cừu thuộc sở hữu của một nông dân ở Couflens, Pyrenees, tây nam nước Pháp, được cho là đã hoảng sợ khi con gấu xuất hiện. Sau khi gấu tấn công một con cừu, 209 con khác đã hoảng loạn và lao xuống vực cao 200 m ở biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha. Xác chết của 169 con cừu được tìm thấy vào ngày hôm sau dưới chân núi thuộc địa phận làng Lladorre, Tây Ban Nha. Số xác cừu còn lại được tìm thấy ở Pháp, lông gấu được tìm thấy trên vài xác cừu[1].

Chăn nuôi[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • André SANSON: Les Moutons. Histoire Naturelle et Zootechnie, Librairie Agricole de La Maison Rustique - 1878 - Paris
  • Institut de l'Elevage, département génétique: Bilan du contrôle de performances ovins allaitants - Campagne 2012, 93 pp, mars 2013.
  • Michel CHEVALIER: La vie humaine dans les Pyrénées ariégeoises, page 833, M.-TH. GÉNIN ed., 1060pp, 1956, Paris
  • Gérard BOZZOLO (aoc-bareges-gavarnie) [archive]
  • BRG Tarasconnaise [archive]
  • L'agneau des Pyrénées en route vers l'IGP [archive]
  • IRQUALIM [archive]
  • Forum débat ASPAP, Pastoralies 6 et août 2010: Hommes, Savoirs, Milieux, la place essentielle du pastoralisme [archive]
  • Charte du broutard du Pays de l'ours [archive]
  • Le site des producteurs d'agneau broutard [archive]
  • Site officiel de l'ASPAP [archive]
  • En rapport avec le photopériodisme et la reproduction: c'est le fait d'organiser la lutte (nom donné à la reproduction chez les ovins) au printemps, donc à contre saison car à durée de jours croissante, plutôt qu'à l'automne (durée de jour décroissante qui est la saison naturelle de reproduction des moutons dans l'hémisphère nord, au moins au nord de l'Europe et dans la moitié nord de la France). Il faut se rappeler que la durée de gestation chez les ovins est de 5 mois
  • Budiansky, Stephen (1999). The Covenant of the Wild: Why animals chose domestication. Yale University Press. ISBN 0-300-07993-1.
  • Ensminger, Dr. M.E.; Dr. R.O. Parker (1986). Sheep and Goat Science, Fifth Edition. Danville, Illinois: The Interstate Printers and Publishers Inc. ISBN 0-8134-2464-X.
  • Pugh, David G. (2001). Sheep & Goat Medicine. Elsevier Health Sciences. ISBN 0-7216-9052-1.
  • Simmons, Paula; Carol Ekarius (2001). Storey's Guide to Raising Sheep. North Adams, MA: Storey Publishing LLC. ISBN 978-1-58017-262-2.
  • Smith M.S., Barbara; Mark Aseltine PhD; Gerald Kennedy DVM (1997). Beginning Shepherd's Manual, Second Edition. Ames, Iowa: Iowa State University Press. ISBN 0-8138-2799-X.
  • Weaver, Sue (2005). Sheep: small-scale sheep keeping for pleasure and profit. 3 Burroughs Irvine, CA 92618: Hobby Farm Press, an imprint of BowTie Press, a division of BowTie Inc. ISBN 1-931993-49-1.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Wooster, Chuck (2005). Living with Sheep: Everything You Need to Know to Raise Your Own Flock. Geoff Hansen (Photography). Guilford, Connecticut: The Lyons Press. ISBN 1-59228-531-7.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]