Chính quyền quân sự Anh tại Mã Lai
Chính quyền quân sự Anh tại Mã Lai
|
|||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||||
1945–1946 | |||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||
Vị thế | Quản trị quân sự lâm thời | ||||||||||||||
Thủ đô | Kuala Lumpur (de facto) | ||||||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh , Tiếng Mã Lai | ||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||
Chính phủ | Chính quyền quân sự | ||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||
Thời kỳ | Post-war | ||||||||||||||
2 tháng 9 năm 1945 | |||||||||||||||
• Chính quyền quân sự Anh thành lập | 12 tháng 9 1945 | ||||||||||||||
• Hình thành Liên hiệp Mã Lai | 1 tháng 4 1946 | ||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Đô la Mã Lai Bảng Anh | ||||||||||||||
Mã ISO 3166 | MY | ||||||||||||||
| |||||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Malaysia Singapore |
Chính quyền quân sự Anh tại Mã Lai (tiếng Anh: British Military Administration, viết tắt là BMA) là quản trị viên lâm thời của Mã Lai thuộc Anh từ tháng 8 năm 1945, kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, để thành lập Liên minh Mã Lai vào tháng 4 năm 1946. BMA nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Đồng minh tối cao Đông Nam Á Châu Á, Lord Louis Mountbatten. Chính quyền có chức năng kép là duy trì sinh hoạt cơ bản trong thời kỳ tái chiếm, và cũng áp đặt cơ cấu nhà nước mà quyền lực đế quốc sau chiến tranh sẽ bình yên.[1]
Nhân sự
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù tên của nó (Cục quản lý quân sự Anh) ngụ ý BMA chủ yếu là một tổ chức quân sự. tuy nhiên có các cố vấn dân sự và nhiều quan chức quân đội là thường dân, nó thường tỏ ra thờ ơ với các mối quan tâm phổ biến. Một yếu tố phức tạp là BMA có vài quản trị viên chuyên nghiệp dày dạn gọi cho ai.[2] Gần ba phần tư nhân viên cấp cao không có kinh nghiệm trước đây trong chính phủ và chỉ một phần tư nhân viên cấp cao của Bộ Dân sự có bất kỳ kiến thức nào về Malaya.[3] Hơn nữa, thành phần vũ trang của BMA là một nguồn khiếu nại vô số. Như một nhà quan sát người Anh đã lưu ý, "Nói chung, Quân đội đã hành xử, và điều này cũng đúng với các sĩ quan, như thể họ đang ở trong lãnh thổ của kẻ thù bị chinh phục".[4]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ F. S. V. Dommison, British Military Administration in the far East (London, 1956)
- ^ Stubbs, Richard. Heart and Minds in Guerrilla Warfare: The Malayan Emergency 1948-1960. Oxford: Oxford University Press, 2004.
- ^ Martin Rudner, 'The Organisation of the British Military Administration in Malaya',Journal of Southeast Asian History 9 (March 1968),p.103.
- ^ Khong Kim Hoong, Merdeka! British Rule and the Struggle for Independence in Malaya, 1945-1957 (Petaling Jaya, Malaysia: Institute for Social Analysis, 1984), pp. 42-43
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- F. S. V. Donnison, "British Military Administration in the far East." Pacific Affairs 30, no. 4 (1957): 389-392.
- Stubbs, Richard. Heart and Minds in Guerrilla Warfare: The Malayan Emergency 1948-1960. Oxford: Oxford University Press, 2004. ISBN 981-210-352-X
- Rudner, Martin. "The Organization of the British Military Administration in Malaya",Journal of Southeast Asian History 9, no. 1 (1968): 95-106.
- British Document On the End of Empire Vol. 1, Edited by S. R. Ashton. London: University of London Press, 1995. ISBN 0 11 290540 4
- Malaya thuộc Anh
- Singapore thuộc Anh
- Cựu thuộc địa ở Châu Á
- Cựu quốc gia trong lịch sử Malaysia
- Lịch sử quân sự Đế quốc Anh và Khối Thịnh vượng chung Anh trong Thế chiến thứ hai
- Lịch sử quân sự Vương quốc Liên hiệp Anh trong Thế chiến thứ hai
- Lịch sử chính trị Malaysia
- Lịch sử quân sự năm 1945
- Lịch sử quân sự năm 1946
- Quốc gia và vùng lãnh thổ khởi đầu năm 1945