Bước tới nội dung

Chóng mặt lành tính do tư thế

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Chóng mặt lành tính do tư thế
Mê đạo của tai trong.
Khoa/NgànhKhoa tai mũi họng
Triệu chứngNhững cơn chóng mặt khi chuyển động[1]
Khởi phát50 tới 70 tuổi[2]
Diễn biếnÍt hơn 1 phút[3]
Yếu tố nguy cơTuổi già, chấn thương đầu[3]
Phương pháp chẩn đoánDương tính với bài kiểm tra Dix-Hallpike sau khi đã loại trừ các nguyên nhân khác[1]
Chẩn đoán phân biệtLabyrinthitis, Ménière's disease, stroke, vestibular migraine[3][4]
Điều trịEpley maneuver hoặc Brandt–Daroff exercises[3][5]
Tiên lượngVài ngày hoặc vài tháng[6]
Dịch tễ2.4% dân số từng trải qua tình trạng này [1]

Chóng mặt lành tính do tư thế, còn được gọi là chóng mặt tư thế kịch phát lành tính, được dịch từ tên tiếng Anh Benign paroxysmal positional vertigo (BBPV), là một rối loạn phát sinh từ tai trong.[3] Các triệu chứng lặp lại như những đợt chóng mặt, cảm giác quay tròn xảy ra mỗi khi thay đổi vị trí của đầu,[1] như khi xoay người trên giường hoặc thay đổi tư thế nằm. Mỗi đợt chóng mặt thường kéo dài dưới một phút. Thường đi kèm với triệu chứng buồn nôn.[7] Chóng mặt lành tính do tư thế là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của chứng chóng mặt.[2]

Chóng mặt lành tính do tư thế có thể là hậu quả của chấn thương đầu hoặc đơn giản là do tuổi tác. Phần lớn các trường hợp không xác định được nguyên nhân cụ thể. Nguyên nhân cơ bản thường là do một tinh thể canxi nhỏ gọi là sỏi tai bị lạc vào tai trong. Đây là một loại rối loạn cân bằng cùng với viêm tai trongbệnh Ménière.[3] Chẩn đoán thường dựa vào chứng giật nhãn cầu (một kiểu chuyển động cụ thể của mắt) khi thực hiện bài kiểm tra Dix-Hallpike sau khi đã loại trừ các nguyên nhân khác.[1] Trong đa số trường hợp, việc chụp ảnh y tế là không cần thiết.

Chóng mặt lành tính do tư thế thường được điều trị bằng một số động tác đơn giản như thao tác Epley, hoặc Half Somersault (nếu mắt bị rung giật theo chiều xoay chéo), thao tác Lempert (nếu mắt rung ngang), động tác cúi đầu sâu (nếu mắt rung theo chiều dọc) hoặc bài tập Brandt-Daroff.[3][5] Thuốc kháng histamin như meclizine có thể được sử dụng để điều trị triệu chứng buồn nôn.[8] Có bằng chứng dự kiến rằng betahistine có thể giúp điều trị chứng chóng mặt nhưng nhìn chung việc sử dụng là không cần thiết.[1][9] Chóng mặt lành tính do tư thế không phải là một tình trạng nghiêm trọng, nhưng có thể dẫn đến nguy cơ té ngã hoặc tai nạn do mất định hướng. BBPV có thể tự hết trong vài ngày đến vài tháng nếu không được điều trị.[6] Tuy nhiên nó có thể tái phát ở một số người.[7]

Mô tả y tế đầu tiên về tình trạng này được Robert Barany ghi nhận vào năm 1921.[10] Khoảng 2,4% số người bị ảnh hưởng tại một thời điểm trong đời.[1] Trong số những người sống đến 80 tuổi, 10% đã bị ảnh hưởng.[2] Tỉ lệ phụ nữ bị chóng mặt lành tính do tư thế nhiều hơn gấp đôi so với nam.[7] Khởi phát bệnh thường xuất hiện ở những người trong độ tuổi từ 50 đến 70.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Bhattacharyya N, Baugh RF, Orvidas L, Barrs D, Bronston LJ, Cass S, Chalian AA, Desmond AL, Earll JM, Fife TD, Fuller DC, Judge JO, Mann NR, Rosenfeld RM, Schuring LT, Steiner RW, Whitney SL, Haidari J (tháng 11 năm 2008). "Clinical practice guideline: benign paroxysmal positional vertigo". Otolaryngology–Head and Neck Surgery. Quyển 139 số 5 Suppl 4. tr. S47-81. doi:10.1016/j.otohns.2008.08.022. PMID 18973840. {{Chú thích tạp chí}}: Đã bỏ qua tham số không rõ |lay-date= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |lay-source= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |lay-url= (trợ giúp)
  2. ^ a b c Dickson, Gretchen (2014). Primary Care ENT, An Issue of Primary Care: Clinics in Office Practice, Volume 41, Issue 1 of The Clinics: Internal Medicine. Elsevier Health Sciences. tr. 115. ISBN 9780323287173. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  3. ^ a b c d e f g "Balance Disorders". NIDCD. ngày 10 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  4. ^ Ferri, Fred F. (2016). Ferri's Clinical Advisor 2017 E-Book: 5 Books in 1 (bằng tiếng Anh). Elsevier Health Sciences. tr. 170. ISBN 9780323448383. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  5. ^ a b Hilton MP, Pinder DK (tháng 12 năm 2014). "The Epley (canalith repositioning) manoeuvre for benign paroxysmal positional vertigo". The Cochrane Database of Systematic Reviews. Số 12. tr. CD003162. doi:10.1002/14651858.CD003162.pub3. PMID 25485940.
  6. ^ a b "Benign Paroxysmal Positional Vertigo". NORD (National Organization for Rare Disorders). Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2020.
  7. ^ a b c "Positional vertigo: Overview". PubMed Health (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  8. ^ "Meclizine Hydrochloride Monograph for Professionals". Drugs.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2025.
  9. ^ Murdin L, Hussain K, Schilder AG (tháng 6 năm 2016). "Betahistine for symptoms of vertigo" (PDF). The Cochrane Database of Systematic Reviews. Số 6. tr. CD010696. doi:10.1002/14651858.CD010696.pub2. PMID 27327415.
  10. ^ Daroff, Robert B. (2012). "Chapter 37". Bradley's neurology in clinical practice (ấn bản thứ 6). Philadelphia, PA: Elsevier Saunders. ISBN 9781455728077. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2016.