Chlorurus troschelii

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chlorurus troschelii
Cá đực
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Scaridae
Chi (genus)Chlorurus
Loài (species)C. troschelii
Danh pháp hai phần
Chlorurus troschelii
(Bleeker, 1853)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Scarus troschelii Bleeker, 1853
  • Pseudoscarus rhoduropterus Bleeker, 1861

Chlorurus troschelii là một loài cá biển thuộc chi Chlorurus trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được đặt theo tên của Franz Hermann Troschel, nhà động vật học người Đức[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. troschelii có phạm vi phân bố rất nhỏ hẹp ở Đông Ấn Độ Dương. Loài này được ghi nhận từ bờ tây Thái Lan, trải dài theo bán đảo Mã Lai về phía nam đến đảo SumatraJava (Indonesia), bao gồm quần đảo Cocos (Keeling) của Úc[1].

C. troschelii sống gần các rạn san hô ven bờ và trong các đầm phá ở độ sâu khoảng từ 5 đến 25 m[1][3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

C. troschelii có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 40 cm[1]. Thân thuôn dài, hình bầu dục. Cá cái của C. troschelii với hai loài Chlorurus bleekeriChlorurus capistratoides rất khó để phân biệt được chúng: nâu sẫm (phớt đỏ ở bụng và các vây) với các dải sọc trắng ở hai bên thân[4].

Cá đực của cả 3 loài này cũng có màu sắc khá giống nhau, nhưng C. troschelii được phân biệt bởi vùng màu trắng nhạt ở hai bên má, được viền bởi một vệt sọc màu xanh lục ở trên (vệt xanh này nằm ngay dưới mắt). Ở C. bleekeri, vùng trắng trên má hoàn toàn được viền bởi sọc xanh lục, còn C. capistratoides không có viền xanh bao quanh vùng trắng trên má[4][5]. C. troschelii được nhiều nhà khoa học xếp vào nhóm chị em với C. bleekeriChlorurus bowersi[6].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15[4].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. troscheliitảo. Chúng có thể sống đơn độc hoặc ghép cặp[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e J. H. Choat và cộng sự (2012). Chlorurus troschelii. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T190741A17787513. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T190741A17787513.en. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chlorurus troschelii trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ a b c D. R. Bellwood (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3479. ISBN 978-9251045893.
  5. ^ Dianne J. Bray (2017). “Troschel's Parrotfish, Chlorurus troschelii (Bleeker 1853)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  6. ^ Lydia L. Smith và cộng sự (2008). “Phylogenetic Relationships and the Evolution of Regulatory Gene Sequences in the Parrotfishes”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 49 (1): 136–152. PMC 3418665.