Formiga (cầu thủ bóng đá, sinh 1978)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Formiga
Cô thi đấu tại World Cup Bóng đá Nữ 2011
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Miraildes Maciel Mota[1]
Ngày sinh 3 tháng 3, 1978 (46 tuổi)
Nơi sinh Salvador, Bahia, Brazil[2]
Chiều cao 162 cm (5 ft 4 in)[3]
Vị trí Tiền vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Paris Saint-Germain
Số áo 8[4]
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1993–1997 São Paulo
1998 Portuguesa
1999 São Paulo
2000–2001 Santa Isabel
2002 Santos
2003 Independente
2004–2005 Malmö FF Dam
2006 New Jersey Wildcats 12 (13)
2007 Jersey Sky Blue 6 (1)
2007 Saad
2008 Botucatu
2009 FC Gold Pride 16 (0)
2010 Chicago Red Stars 23 (0)
2011– 2017 São José
2017– Paris Saint-Germain 39 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1995– Brazil 180[5] (23)
Thành tích huy chương
Thế vận hội Mùa hè - Bóng đá nữ
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2004 Athens Đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2008 Bắc Kinh Đội
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2003 Santo Domingo Đội
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2007 Rio de Janeiro [Đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2011 Guadalajara Đội
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2015 Toronto Đội
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 18:32, 23 tháng 6 năm 2015 (UTC)

Miraildes Maciel Mota (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1978), thường được gọi là Formiga (trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là kiến), là một cầu thủ bóng đá người Brazil thường chơi bóng trong vai trò là một tiền vệ cho Paris Saint-Germain. Cô từng chơi cho các câu lạc bộ chuyên nghiệp ở Thụy ĐiểnHoa Kỳ. Formiga nắm giữ nhiều kỷ lục quốc tế với tư cách là thành viên của đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Brazil, là cầu thủ duy nhất có mặt trong tất cả các trận đấu bóng đá nữ kể từ lần đầu tiên tổ chức tại Thế vận hội mùa hè 1996 và cùng giữ kỷ lục này với Homare Sawa, với sáu lần tham gia sân chơi World Cup nữ của FIFA.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra ở Salvador, Formiga bắt đầu chơi bóng đá ở tuổi 12. Cô cho biết Dunga, đội trưởng đội tuyển bóng đá nam Brazil giành được chiến thắng tại World Cup 1994 là cầu thủ gây ảnh hưởng lớn nhất đến phong cách chơi bóng của cô.[6]

Formiga chơi tại giải Damallsvenskan Thụy Điển với vai trò là thành viên đội bóng Malmö FF Dam và cho cả Santa Isabel và Saad ở quê hương Brazil.[7] Formiga là lựa chọn tổng thể đầu tiên cho giải bóng đá nữ chuyên nghiệp (WPS) mới được khánh thành tại Hoa Kỳ trong Dự thảo quốc tế WPS 2008, được chọn bởi FC Gold Pride của Santa Clara, California.[8] Cô bắt đầu 15 trong số 16 trận cho Gold Pride trong mùa giải đầu tiên của họ vào năm 2009. Mùa giải tiếp theo, Formiga đã chơi cho Chicago Red Stars, cùng với đồng hương Cristiane.[9] Năm 2011, Formiga trở lại đất nước của mình để chơi cho São José.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Women's Olympic Football Tournament London 2012 – List of Players Brazil” (PDF). FIFA. ngày 24 tháng 7 năm 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ “Formiga”. Sports Reference. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  3. ^ “List of Players – Brazil” (PDF). FIFA. ngày 8 tháng 6 năm 2015. tr. 2. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2015.
  4. ^ “Confederação Brasileira de Futebol súmula on-line – CBF, jogo 37” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Football Confederation. ngày 12 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2015.
  5. ^ “Profile”. FIFA.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2015.
  6. ^ “Formiga” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Universo Online. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  7. ^ “Formiga” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Universo Online. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
  8. ^ Elliot, Almond (ngày 3 tháng 2 năm 2009). “FC Gold Pride signs No. 1 pick Formiga”. San Jose Mercury News. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2009.
  9. ^ “Brazilian midfielder Formiga joins Cristiane on Red Stars”. Daily Herald (Arlington Heights). ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.