Bước tới nội dung

Giao hưởng Số 6 (Tchaikovsky)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Giao hưởng số 6 (Tchaikovsky))
Giao hưởng Số 6
của nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky
Chân dung Tchaikovsky, 1893
Tên khácGiao hưởng Bi thương
GiọngSi thứ
Opus74
Giai đoạnÂm nhạc thời kỳ Lãng mạn
Sáng tác vàotháng 8 năm 1893
Đề tặngcháu trai của Tchaikovsky, Vladimir Davydov [ru]
Thời lượngkhoảng 45 đến 50 phút
Số chương4
Nhạc cụ tham giaDàn nhạc
Công diễn lần đầu
Ngày biểu diễnngày 28 (lịch cũ: ngày 16) tháng 10 năm 1893
Địa điểmSankt Peterburg,  Đế quốc Nga
Nhạc trưởngPyotr Ilyich Tchaikovsky

Giao hưởng Số 6 giọng Si thứ, Op. 74 (TH 30, ČW 27), còn được biết đến với tên gọi Giao hưởng "Bi thương,"[1] là bản giao hưởng hoàn chỉnh cuối cùng của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Ông sáng tác tác phẩm này từ tháng 2 đến cuối tháng 8 năm 1893. Tác giả đặt tên tác phẩm là Giao hưởng "Đam mê", sử dụng từ tiếng Nga Патетическая (Pateticheskaya), với nghĩa "nồng nhiệt" hoặc "xúc động."[2] Sau đó, từ này bị dịch sai sang tiếng Pháp thành Pathétique, nghĩa là "thống thiết" hoặc "bi tráng."[3][4]Việt Nam, tác phẩm được biết đến nhiều nhất với tên gọi "Bi thương."

Nhà soạn nhạc trực tiếp chỉ huy buổi công diễn tại Saint Petersburg vào ngày 16 tháng 10 (lịch mới: ngày 28 tháng 10) cùng năm, chỉ 9 ngày trước khi ông qua đời.[5][6] Buổi biểu diễn thứ hai diễn ra sau đó 21 ngày, vào ngày 6 tháng 11 (lịch mới: ngày 18 tháng 11), trong một buổi hòa nhạc tưởng niệm. Lần này, nhạc trưởng Eduard Nápravník [ru] đảm nhận vai trò chỉ huy.[7][8] Phiên bản này có một số chỉnh sửa nhỏ do chính Tchaikovsky thực hiện sau buổi công diễn. Vì vậy, đây được xem là lần biểu diễn đầu tiên của bản Giao hưởng Số 6 hoàn chỉnh như ngày nay. Buổi diễn đầu tiên tại Moskva được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 (lịch mới: ngày 16 tháng 12), dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Vasily Safonov [ru].[9] Đây là tác phẩm cuối cùng của Tchaikovsky được công diễn khi nhà soạn nhạc còn sống. Tác phẩm cuối cùng ông viết là Piano Concerto số 3 [en], Op. 75, với chỉ 1 chương được hoàn thành, không lâu trước khi ông qua đời vào tháng 10 năm 1893. Tác phẩm này được công diễn sau khi ông mất.

Tiêu đề

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiêu đề tiếng Nga của bản giao hưởng là "Патетическая" (Pateticheskaya), mang nghĩa "đam mê" hoặc "xúc động."[2] Từ này không có nghĩa "lay động niềm thương cảm," nhưng vẫn gợi lên một chút cảm giác đau khổ. Ban đầu, Tchaikovsky dự định đặt tên là "Программная" (Programmnaya), tức Giao hưởng "Chương trình."[6] Tuy nhiên, ông nhận ra cách đặt tên này sẽ khiến công chúng tò mò về nội dung chương trình của bản giao hưởng, điều ông không muốn tiết lộ.

Em trai nhà soạn nhạc, Modest [ru], tự nhận rằng mình là người đề xuất tiêu đề Патетическая. Tiêu đề này được sử dụng trong những ấn bản đầu tiên của tác phẩm. Tuy nhiên, nhiều nguồn ghi chép mâu thuẫn nhau về việc Tchaikovsky có thực sự thích tiêu đề này hay không.[10][4] Dù vậy, nhà xuất bản vẫn quyết định giữ nguyên tên gọi, và nó đã trở thành tên chính thức của bản giao hưởng. Bản dịch sang tiếng Pháp "Pathétique" được sử dụng phổ biến trong nhiều ngôn ngữ như tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Đức và các ngôn ngữ châu Âu khác.[11] Đến đầu thế kỷ 20, nhiều nhạc sĩ cổ điển nói tiếng Anh đã sử dụng cách viết và phát âm tiếng Anh cho bản giao hưởng này, gọi là “The Pathetic.” Cách gọi này nhằm phân biệt với sonata nổi tiếng do Beethoven sáng tác năm 1798, cũng mang tên "Pathétique." Bản chuyển soạn Giao hưởng Số 6 cho piano của Tchaikovsky được xuất bản lần đầu bởi Pyotr Jurgenson [en]Moskva. Một năm sau, Robert Forberg cũng phát hành phiên bản này ở Leipzig.[12]

Quá trình sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành Giao hưởng Số 5 vào năm 1888, Tchaikovsky đã không nghĩ gì đến bản giao hưởng tiếp theo. Mãi đến tháng 4 năm 1891 ông mới lên ý tưởng cho bản giao hưởng mới.[13] Tuy nhiên, ông không hài lòng. Trong tâm trạng chán nản thường xuyên và nghi ngờ về khả năng sáng tạo của mình,[a] Tchaikovsky đã xé bỏ bản thảo.[b] Ông cho rằng bản giao hưởng này "chỉ là một tác phẩm được viết bằng ý chí tuyệt đối của nhà soạn nhạc, [...] nên được gạt sang một bên và quên lãng."[c][5][14] Vào ngày 11 (lịch mới: ngày 23) tháng 2 năm 1893, Tchaikovsky viết thư cho cháu trai Vladimir Davydov [ru]:

Cháu biết đấy, chú đã hủy một bản giao hưởng mà chú sáng tác và chỉ mới phối khí một phần vào mùa thu năm ngoái. [...] Trong chuyến đi gần đây, chú nảy ra ý tưởng cho một bản giao hưởng khác. Lần này với chương trình. Tuy nhiên, chương trình ấy sẽ là điều bí ẩn với tất cả mọi người. Tác phẩm mang tên Giao hưởng Chương trình (số 6); tiếng Pháp: Symphonie à Programme (No. 6); tiếng Đức: Programm-Symphonie (No. 6). Bản thân chương trình sẽ mang nặng tính chủ quan. Suốt chuyến đi, khi chú hình dung và sáng tác trong đầu, đã có những lúc chú xúc động đến mức bật khóc. Khi trở về, chú ngồi viết phác thảo ngay. Công việc diễn ra nhanh chóng và mãnh liệt đến mức chưa đầy bốn ngày, chương đầu tiên đã hoàn thành. Các chương còn lại cũng đã được định hình rõ ràng trong tâm trí chú. Chương ba đã hoàn thành được một nửa. Hình thức của bản giao hưởng này sẽ hoàn toàn mới. Đặc biệt, chương cuối không phải đoạn allegro sôi nổi như thường lệ mà ngược lại, là đoạn adagio kéo dài và sâu lắng. Cháu không thể tưởng tượng được chú cảm thấy hạnh phúc đến nhường nào khi tin chắc rằng thời của mình vẫn chưa hết, và chú vẫn còn khả năng sáng tác. Tất nhiên chú có thể nhầm, nhưng chú không nghĩ vậy.[d][15]

Ở cuối bản phác thảo Chương I, tác giả ghi chú: "Bắt đầu vào thứ năm, ngày 4 (lịch mới: ngày 16) tháng 2. Hoàn thành vào thứ ba, ngày 9 (lịch mới: ngày 21) tháng 2 năm [18]93."[e]

Trong thư gửi em trai Anatoly Tchaikovsky vào ngày 10 (lịch mới: ngày 22) tháng 2, nhà soạn nhạc viết: "Tâm trí anh lúc này hoàn toàn cuốn vào một tác phẩm mới (một bản giao hưởng). Thật khó để anh có thể tạm gác công việc này lại. Anh có cảm giác đây là tác phẩm hay nhất mà mình sáng tác. Bản giao hưởng này cần phải hoàn thành càng sớm càng tốt, vì anh còn rất nhiều việc khác phải làm. [...]"[f][16][17]

Trong số các bản phác thảo của Chương III, tại đoạn mở đầu của phần trình bày giọng Mi trưởng, nhà soạn nhạc viết: "Khởi hành hôm nay, ngày 11 (lịch mới: ngày 23) tháng 2. Khi trở về, điều đầu tiên cần viết là phần kết, một hành khúc giọng Sol trưởng với phong cách trang nghiêm và khải hoàn. Ngoài ra còn phần trình bày đầu tiên với hành khúc giọng Đô trưởng, bắt đầu từ trang này, và cả phần tái hiện của đoạn scherzo, có thay đổi và thêm âm giữ [en] nốt Rê."[g]

Bàn làm việc trong phòng ngủ của Tchaikovsky ở Klin. Đây là nơi ông sáng tác Giao hưởng Số 6.

Có vẻ như Tchaikovsky đã viết Chương III trong khoảng thời gian từ ngày 17 tháng 2 (lịch mới: ngày 1 tháng 3) đến ngày 24 tháng 2 (lịch mới: ngày 8 tháng 3). Sau đó, ông lại lên đường. Hiện vẫn chưa thể xác định rõ ông đã tiếp tục sáng tác đến đâu sau khi trở về từ Moskva, trong khoảng thời gian từ ngày 28 tháng 2 (lịch mới: ngày 12 tháng 3) đến ngày ngày 3 (lịch mới: ngày 15) tháng 3. Chỉ biết rằng, trong những ngày này, Tchaikovsky đang viết tứ tấu Night cho hợp xướng và piano. Cuối bản thảo tác phẩm này có ghi: "Klin, ngày 3 (lịch mới: ngày 15) tháng 3 năm 1893." Sau đó, quá trình sáng tác bị gián đoạn một thời gian do chuyến lưu diễn của Tchaikovsky tại Kharkov. Ngày 19 (lịch mới: ngày 31) tháng 3, khi đã trở về Klin, ông viết thư cho người em trai Modest [ru]: “Tối qua anh vừa trở về từ Kharkov. [...] Trong vài ngày tới, anh sẽ tập trung hoàn thiện các bản phác thảo cho finale và scherzo của bản giao hưởng mới.”[h][18]

Có cơ sở để cho rằng đoạn “scherzo” mà Tchaikovsky nhắc đến là Chương II. Lý do là ông đã dành khoảng 10 ngày trong tháng 2 và tháng 3 để viết Chương III, nên khả năng cao “scherzo” không ám chỉ phần đó. Giả thuyết này càng được củng cố bởi những ghi chú trong sổ tay phác thảo. Sau khi hoàn thành bản phác thảo cho chương hai, Tchaikovsky viết: “Hôm nay, ngày 24 tháng 3 (lịch mới: ngày 5 tháng 4), đã hoàn tất toàn bộ bản phác thảo!!!”[i] Ngay hôm sau, ông gửi thư cho nhà soạn nhạc Mikhail Ippolitov-Ivanov: “Tôi không tin mình đã làm được nhiều đến thế kể từ mùa đông, [...] dù chỉ là từng đợt ngắt quãng khi ở nhà. Tôi không nhớ đã kể với anh chưa, rằng tôi từng soạn một bản giao hưởng,[j] rồi bất ngờ thất vọng và xé bỏ. Gần đây, cũng trong những khoảng thời gian ngắt quãng, tôi đã sáng tác được một bản mới, và lần này chắc chắn sẽ không bị xé bỏ.”[k][19]

Các ghi chú trong bản phác thảo cho phép xác định trình tự sáng tác của Giao hưởng Số 6: bắt đầu với Chương I, tiếp theo là Chương III, sau đó là Chương IV và cuối cùng là Chương II. Toàn bộ bản phác thảo được hoàn thành trong vòng ba tuần.

Mãi đến tháng 7 Tchaikovsky mới bắt đầu phối khí cho bản giao hưởng. Trong thư gửi Anatoly Tchaikovsky [ru] vào ngày 6 (lịch mới: ngày 18) tháng 7, ông viết: "Anh sẽ ở lại đây [Ukholovo [ru]] 5 ngày, [...] rồi sẽ lên đường đến Klin. Phải thú nhận rằng anh rất muốn được ở một mình. Mặc dù không thể về nhà, nơi anh cần đến để bắt đầu phối khí cho hai tác phẩm lớn: bản giao hưởng (mà anh rất hài lòng) và bản piano concerto, [...] giờ anh phải khẩn trương để mọi thứ kịp hoàn thành trước ngày 1 (lịch mới: ngày 13) tháng 9."[l][20]

Ngày 19 (lịch mới: ngày 31) năm 1893 tháng 7, từ Klin, Tchaikovsky viết thư cho cháu gái Anna Merkling: “Chú đã để bản thân nhàn rỗi quá lâu, và giờ chú khao khát được làm việc. Ngày mai, chú sẽ dồn toàn bộ tâm trí vào bản giao hưởng mới.”[m][21] Ông cũng thông báo với các cộng sự thân thiết gồm Aleksandr Ziloti [ru],[22] Mikhail Ippolitov-Ivanov,[23] Anatoly Tchaikovsky [ru],[24] Vladimir Davydov [ru],[25] Sergei Taneyev[26] và Praskovya Tchaikovskaya[27] rằng quá trình phối khí bản giao hưởng đã chính thức bắt đầu.

Phòng tiếp tân trong nhà Tchaikovsky ở Klin. Nơi đây còn lưu giữ piano và bàn làm việc của ông. Trên tường có treo hình Anton Rubinsten, thầy của ông tại Nhạc viện Sankt-Peterburg.

Ngày 22 tháng 7 (lịch mới: ngày 3 tháng 8) năm 1893, nhà soạn nhạc viết thư cho em trai Modest [ru]: "Hiện tại, anh đang ngập đầu trong bản giao hưởng. Càng làm, mọi thứ càng trở nên khó khăn hơn. Hai mươi năm trước, anh có thể lao vào sáng tác hăng say, không cần suy nghĩ nhiều, và kết quả vẫn rất tốt. Nhưng giờ đây, anh trở nên dè dặt và thiếu tự tin. Hôm nay, anh đã ngồi suốt cả ngày chỉ để viết hai trang — và chẳng có gì diễn ra đúng như anh muốn. Dù vậy, công việc vẫn đang tiến triển. [...]"[n][28]

Trong thư gửi Aleksandr Ziloti [ru] vào ngày 23 tháng 7 (lịch mới: ngày 4 tháng 8), Tchaikovsky chia sẻ: "Tôi đang phối khí cho bản giao hưởng, và thật kỳ lạ, công việc này khó đến mức không ngờ. Tôi không hài lòng với bất kỳ điều gì. Mọi thứ đều khiến tôi muốn làm lại cho tốt hơn — nhưng làm thế nào? Tôi không biết! Dù vậy, tôi tin rằng bạn sẽ thích bản giao hưởng này."[o][29]

Ngày 2 (lịch mới: ngày 14) năm 1893 tháng 8, Tchaikovsky viết thư cho Vladimir Davydov [ru] rằng bản giao hưởng "[...] đang dần hoàn thiện. Chú rất hài lòng với nội dung của nó. Tuy nhiên, phần phối khí lại khiến chú chưa thực sự thỏa mãn. Không hiểu vì sao, mọi thứ không diễn ra đúng như những gì chú hình dung ban đầu. Với chú, việc bản giao hưởng này bị chỉ trích hoặc không được đánh giá cao cũng chẳng có gì bất ngờ. Điều đó đã từng xảy ra trước đây. Tuy vậy, chú vẫn tin rằng đây là tác phẩm hay nhất, đặc biệt chân thành nhất trong tất cả những gì chú từng sáng tác. Chú yêu bản giao hưởng này như chưa từng yêu bất kỳ “đứa con âm nhạc” nào khác.”[p][30]

Việc phối khí cho bản giao hưởng lúc này đã gần hoàn tất. Ngày 2 (lịch mới: ngày 14) tháng 8, Tchaikovsky viết thư cho Sergei Taneyev: “Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ hoàn thành phần phối khí cho Chương III của bản giao hưởng. Tiếp đó, chỉ cần hai hoặc ba ngày nữa để bắt tay vào chương cuối. Phần này không nên mất quá ba ngày. Sau đó, tôi phải tự mình thực hiện bản chuyển soạn piano 4 tay.”[q][31] Một tuần sau, ông báo tin cho Aleksandr Ziloti [ru]: “Tôi đang tự mình chuyển soạn bản giao hưởng mới cho piano 4 tay!!!”[r][32]

Nhà soạn nhạc chia sẻ với Anatoly [ru]: “Công việc của anh đang tiến triển rất tốt. Tuy nhiên, anh không thể viết nhanh như trước nữa. Không phải vì tuổi già khiến anh yếu đi, mà là vì anh đang tự đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn với chính mình. Anh cũng không còn sự tự tin như trước. Dù vậy, anh vẫn rất tự hào về bản giao hưởng này. Anh tin rằng đây là tác phẩm xuất sắc nhất mà mình từng sáng tác.”[s][33]

Bản giao hưởng vẫn chưa hoàn toàn hoàn thiện khi Tchaikovsky đề nghị biểu diễn tại Saint Petersburg. Trong thư gửi Pavel Peterssen [ru] vào tháng 8, ông viết: “[...] Vậy là đã thống nhất rồi — abgemacht!!! Ngày 10 (lịch mới: ngày 22) tháng 10, tôi sẽ trình diễn bản giao hưởng. Nhân tiện, nó sẽ được hoàn tất hoàn toàn chỉ trong một hoặc hai ngày nữa.”[t][34]

Bản giao hưởng được hoàn tất vào ngày 12 (lịch mới: ngày 24) tháng 8. Tchaikovsky viết thư gửi Sergei Taneyev: "Bản giao hưởng đã hoàn thành. Giờ chỉ còn việc thêm các ký hiệu và chỉ định tốc độ. Về phần cách sử dụng vĩ, tôi dự định sẽ tham khảo ý kiến của Konyus [ru]. Anh ấy sẽ đến gặp tôi trong vài ngày tới, mang theo cây vĩ cầm và cậu em trai Lev [ru]. Lev sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chơi thử bản chuyển soạn mà tôi đã tự mình thực hiện."[u][35] Ông cũng thông báo điều tương tự cho Pyotr Jurgenson [en].[36]

Theo ghi chú trên bản thảo, toàn bộ tổng phổ được hoàn thành vào ngày 19 (lịch mới: ngày 31) tháng 8.

Tchaikovsky dành tình cảm đặc biệt cho bản giao hưởng mới của mình. Ông viết: “Tôi nghĩ tác phẩm này sẽ thành công. Hiếm khi tôi sáng tác điều gì với nhiều tình yêu và say mê đến thế.”[v][37] Ông cũng thẳng thắn chia sẻ: “Tôi có thể nói một cách chân thành rằng, chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy hài lòng với bản thân đến vậy. Thật tự hào và may mắn vì đã tạo ra điều tuyệt vời này.”[w][36]

Chuyển soạn

[sửa | sửa mã nguồn]

Tchaikovsky đã viết bản chuyển soạn Giao hưởng Số 6 cho piano duet (piano 4 tay) trong khoảng thời gian từ ngày 1 (lịch mới: ngày 13) tháng 8 đến ngày 12 (lịch mới: ngày 24) tháng 8 năm 1893. Nhạc sĩ Lev Konyus [ru] đã hỗ trợ ông trong quá trình chuyển soạn này.[38]

Biểu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo hồi ký của Konstantin Saradzhev, Giao hưởng Số 6 được chơi thử lần đầu vào ngày 8 hoặc ngày 9 (lịch mới: ngày 20 hoặc ngày 21) tháng 10 năm 1893.[39] Buổi diễn do một dàn nhạc gồm các sinh viên Nhạc viện Moskva thực hiện, dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Vasily Safonov [ru]. Các sinh viên này đến từ lớp của các giáo sư Jan Hřímalý [ru], Alfred von Glenn, Nikolay Sokolovsky và một số người khác. Tuy nhiên, hiện chưa tìm thấy tài liệu nào khác xác nhận thông tin này. Một ghi chú còn sót lại của Sergei Taneyev về cuộc gặp với Tchaikovsky vào ngày 8 và ngày 9 (lịch mới: ngày 20 và ngày 21) tháng 10 chỉ đề cập đến Piano Concerto Số 3 [en] và tứ tấu Night do lớp học của Yelizaveta Lavrovskaya [ru] biểu diễn. Không có bất kỳ dòng nào nhắc đến Giao hưởng Số 6.[40]

Một ghi chép khác về lần cuối cùng Tchaikovsky đến thăm Nhạc viện Moskva cũng không đề cập đến buổi biểu diễn bản giao hưởng này.[41]

Buổi công diễn Giao hưởng Số 6 diễn ra vào ngày 16 (lịch mới: ngày 28) tháng 10 năm 1893 tại Saint Petersburg. Đây là chương trình hòa nhạc giao hưởng đầu tiên của Hội Âm nhạc Nga [ru]. Tchaikovsky là người trực tiếp chỉ huy. Sau buổi diễn, ông chia sẻ với Pyotr Jurgenson [en]: “Có điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra với bản giao hưởng này! Không phải nó khiến người ta khó chịu, mà nó gây ra sự hoang mang. Riêng với tôi, tôi tự hào về nó hơn bất kỳ tác phẩm nào khác mà mình từng viết. [...]”[x][42]

Tại Moskva, tác phẩm được trình diễn lần đầu vào ngày 4 (lịch mới: ngày 16) tháng 12 năm 1893. Buổi hòa nhạc đặc biệt này được chỉ huy bởi nhạc trưởng Vasily Safonov [ru].

Phòng hòa nhạc Học viện Âm nhạc Quốc gia Hà Nội, lần gần nhất tác phẩm được biểu diễn ở Việt Nam.

Một số buổi diễn đáng chú ý sau đó gồm:

Lần gần nhất tác phẩm này được biểu diễn ở Việt Nam là vào ngày 7 tháng 5 năm 2024, tại Học viện Âm nhạc Quốc gia. Buổi diễn do Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam thực hiện, với sự góp mặt của nghệ sĩ violin Nguyễn Hữu Nguyên. Chương trình được chỉ huy bởi NSƯT Trần Vương Thạch.[43]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản giao hưởng được Jurgenson [en] phát hành ngay sau buổi công diễn đầu tiên. Tháng 11 năm 1893, bản chuyển soạn cho duet piano (piano 4 tay) chính thức ra mắt. Đến tháng 2 năm 1894, toàn bộ tổng phổ và các phần dành cho dàn nhạc cũng được in ấn và phát hành.[44]

Các phiên bản của Jurgenson [en]
Số hiệu Miêu tả Chuyển soạn/Biên tập Xuất bản Ghi chú
19099
Chuyển soạn cho piano 4 tay
Pyotr Tchaikovsky
1893
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 3 năm 1894), tr. 99 (bởi Forberg).
19097
Tổng phổ
1894
19098
Phân phổ
20678
Chuyển soạn cho piano solo
Paul Klengel
1896/97
Phiên bản rút gọn. Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 1 năm 1897), tr. 16 (bởi Forberg).
20677
Chuyển soạn cho piano solo
Henryk Pachulski [ru]
1897 (?)
Thời điểm xuất bản được ước đoán dựa trên số hiệu của ấn bản
20775
Chuyển soạn cho 2 piano (8 tay)
Eduard Langer
1897
Phiên bản rút gọn. Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 9 năm 1897), tr. 372 (bởi Forberg).
20676
Chuyển soạn cho 2 piano (4 tay)
Alfred Schaefer
1897
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 2 năm 1898), tr. 43 (bởi Forberg).
21791
Finale, chuyển soạn cho piano solo
Aleksandr Nemerovsky
1898
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 10 năm 1898), tr. 471 (bởi Forberg). Tác phẩm cũng được đưa vào tuyển tập 2-me recueil de pièces favorites pour le harmonium (T.772)

Tại Leipzig, Robert Forberg đóng vai trò đại diện cho Jurgenson trong việc phát hành bản giao hưởng tại Đức. Forberg cũng tự xuất bản các phiên bản và bản chuyển soạn riêng cho tác phẩm này.

Các phiên bản của Forberg
Số hiệu Miêu tả Chuyển soạn/Biên tập Xuất bản Ghi chú
4664
Chuyển soạn cho piano 4 tay
Pyotr Tchaikovsky
1893
Ấn bản đầu tiên. Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 3 năm 1894), tr. 99.
4665
Tổng phổ
1894
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 3 năm 1894), tr. 99.
4666
Phân phổ
5071
Chuyển soạn cho piano solo
Paul Klengel
1896/97
Phiên bản rút gọn (xem thêm số 5071a). Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 1 năm 1897), tr. 16.
5048
Chuyển soạn cho 2 piano (8 tay)
Eduard Langer
1897
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 9 năm 1897), tr. 372 (bởi Forberg).
5123
Chuyển soạn cho 2 piano (4 tay)
Alfred Schaefer
1897/98
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 2 năm 1898), tr. 43.
5196
Allegro con grazia, chuyển soạn cho organ
Frederick G. Shinn
1898
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 10 năm 1898), tr. 470.
?
Finale, chuyển soạn cho harmonium [en]
Aleksandr Nemerovsky
1898
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 10 năm 1898), tr. 471.
5473
Allegro con grazia, chuyển soạn cho harmonium [en]piano
August Reinhard
1901
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 2 năm 1901), tr. 64.
5464
Allegro con grazia, chuyển soạn cho cellopiano
Jacques van Lier
1901
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 7 năm 1901), tr. 344.
5071a
Chuyển soạn cho piano solo
Paul Klengel
1905
Phiên bản hoàn chỉnh (xem thêm số 5071). Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 2 năm 1905), tr. 66.
5919
Tổng phổ nghiên cứu cho dàn nhạc
Paul Klengel
1906
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 3 năm 1906), tr. 105.
4664
Chuyển soạn cho piano 4 tay
Pyotr Tchaikovsky, hiệu đính bởi Paul Klengel
1906
Phiên bản hiệu đính. Thời điểm phát hành được xác định dựa trên thông tin bản quyền ghi trong ấn phẩm.
?
Allegro con grazia and Adagio lamentoso, chuyển soạn cho violinpiano
Paul Klengel
1914
Được quảng bá trên tạp chí Musikalisch-literarischer Monatsbericht của Hofmeister (tháng 1 năm 1915), tr. 4.

Tổng phổ và chuyển soạn cho piano 4 tay lần lượt được xuất bản trong tập 17Б (1963) và tập 48 (1964). Cả hai thuộc bộ Tuyển tập toàn bộ các tác phẩm của Tchaikovsky và đều do Irina Iordan [ru] biên tập.

Bộ Tuyển tập hoàn chỉnh mới các tác phẩm của Tchaikovsky bao gồm bản sao các bản phác thảo của ông trong tập 39a (1999), do Polina Vaidman biên tập. Tổng phổ được in trong tập 39b (1993). Báo cáo phê bình đi kèm nằm trong tập 39c (2003). Cả hai tập 39b và 39c đều do Thomas Kohlhase biên tập, với sự hỗ trợ của Polina Vaidman.

Biên chế dàn nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Giao hưởng được soạn cho dàn nhạc, với các nhạc cụ sau:

Thay bassoon bằng bass clarinet
Từ nhịp lấy đà của ô nhịp 154 đến ô nhịp 160, Chương I[45]

\header { tagline = ##f }
\score {
  \new Staff \with{ \magnifyStaff #4/5 }{
    \override Score.SpacingSpanner #'common-shortest-duration = #(ly:make-moment 1 2)
    \relative c'' {
      \key d \major \time 4/4 \partial 8*3
      \override Score.MetronomeMark.font-size = #-1
      \tempo "Adagio mosso"
      \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 60
      \set Score.currentBarNumber = #154
      \set Staff.midiInstrument = #"clarinet"
      fis8(^\markup{"Clarinet"} \ppp e d)^\markup{\italic "dolce possibile"} |
      b( \< a fis a) d4.( \p \> b8) a2 \ppp ~a8 
      fis'( e d) a( \< fis d fis) b4..( \p \> a16) a2 ~a8\pppp 
      fis( e d)  a2^\markup{\bold "ritardando molto"} ~a8
      fis'( e d) a2\>\! ~a8 
      fis'(_\markup{\dynamic "ppppp" } e d) b( a fis d)
      \clef bass 
      \set Staff.midiInstrument = #"bassoon"
      \override Stem.color     = #(x11-color 'blue)
      \override NoteHead.color = #(x11-color 'blue)
      \override Beam.color     = #(x11-color 'blue)
      %\override Slur.color     = #(x11-color 'blue)
      %\override Script.color = #(x11-color 'blue)
      b8(^\markup{"Bassoon"}_\markup {\dynamic "pppppp" } a fis d)\fermata 
    }
  }
  \layout {indent = 0\mm line-width = 90\mm}
}
\score {
  \new Staff{
    \relative c'' {
      \key d \major \time 4/4 \partial 8*3
      \set Staff.midiInstrument = #"clarinet"
      \tempo 4 = 57
      fis8(\p e d) | b( \< a fis a) d4.( \f \> b8)\p \tempo 4 = 48 a2 ~a8 
      \tempo 4 = 57
      fis'( e d) a( \< fis d fis) b4..( \f \> \tempo 4 = 48 a16)\p a2 ~a8 
      \tempo 4 = 57
      fis(\p e d) \tempo 4 = 42 a2 ~a8 
      \tempo 4 = 48
      fis'(\pp e d) \tempo 4 = 36 a2 ~a8 
      \tempo 4 = 40
      fis' e  d) \tempo 4 = 32 b( a \tempo 4 = 28 fis\pp \tempo 4 = 24 d)
      \clef bass 
      \set Staff.midiInstrument = #"bassoon"
      b8( \ffff \tempo 4 = 22 a \tempo 4 = 20 fis \tempo 4 = 10 d)
    }
  }
  \midi {}
}
Ở ô nhịp 160, 4 nốt cuối cùng của bassoon (màu xanh) thường được chơi bằng bass clarinet.[46][47][48]

Mặc dù không được ghi trên tổng phổ, song, trên thực tế, bass clarinet [en] thường được sử dụng để thay thế 4 nốt solo của bassoon ngay trước đoạn Allegro vivo trong Chương I.[46][47][48] Điều này bắt nguồn từ nhạc trưởng người Áo-Hung Hans Richter [en].[47][48] Lý do là vì đoạn nhạc có cường độ pppppp, điều gần như bất khả thi với bassoon.[46][47]

Các bản ghi âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chương nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Giao hưởng gồm 4 Chương:

  1. Adagio – Allegro non troppo (Mi thứSi thứRê trưởngRê thứĐô# trưởng – Si thứ – Si trưởng, 354 ô nhịp)
  2. Allegro con grazia (Rê trưởng – Si thứ – Rê trưởng, 178 ô nhịp)
  3. Allegro molto vivace (Sol trưởngMi trưởng – Sol trưởng – Rê trưởng – Sol trưởng, 347 ô nhịp)
  4. Adagio lamentoso (Si thứ – Rê trưởng – Đô trưởng – Si thứ, 171 ô nhịp)

Sự sắp xếp của các chương trong giao hưởng này khá "khác thường." Kể từ thời Haydn, giao hưởng thường có cấu trúc nhanh - chậm - minuetto (có tính chất nhảy múa) - nhanh.[49][50][51] Nếu theo cấu trúc cổ điển này, các chương đáng lẽ phải được sắp xếp như sau:

  1. Adagio - Allegro non troppo
  2. Adagio lamentoso (thực tế là Chương IV)
  3. Allegro con grazia (thực tế là Chương II)
  4. Allegro molto vivace (thực tế là Chương III)

Thay đổi này là một sự sáng tạo của Tchaikovsky. Ông thực hiện điều đó nhằm phục vụ nội dung chương trình ẩn trong tác phẩm.

I. Adagio – Allegro non troppo

[sửa | sửa mã nguồn]
\relative c'{
\set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 54
\set Staff.midiInstrument = #"bassoon"
\set Score.currentBarNumber = #1
\clef bass
\key b \minor
\time 4/4
 \set Score.currentBarNumber =  "283"
        \partial 4
        ^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Adagio } }
            }
        }
\mark \markup { "Chủ đề mở đầu" }
e,,8\pp\< (fis8) g4\!\> (fis2)\!\< fis8\p (g8)\< a4\!\> (g2) g8\!\mp (a8)\< b4\!\> (ais2.)\!\< b1\sf\!\> (b8)\p\!

}

Chương I được viết theo hình thức sonata [en], thường xuyên thay đổi tốc độ, sắc thái và giọng điệu, với giọng chính là Si thứ. Chủ đề mở đầu chậm rãi, u ám với tiếng bassoon độc tấu trên nền bè trầm giảm dần âm lượng — hình mẫu biểu tượng cho sự tang tóc trong âm nhạc thời Baroque.[5] Giai điệu này được xây dựng từ những mô-đun lặp lại của chủ đề đầu tiên. Mục đích của đoạn này dường như để mở ra một hợp âm át, nhưng không thành công.

\relative c' {
        \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 116
        \set Staff.midiInstrument = #"viola"
        \set Score.currentBarNumber = #19
        \key b \minor
        \time 4/4
        \clef alto
        \set Score.currentBarNumber =  "19"
        \partial 4^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Allegro non troppo} }
            }
        }
\mark \markup { "Chủ đề 1" }
        <fis b>8_.\p\< (<g cis>_.)\! <gis d'>4\> (<ais cis>8)\! r8 r4 <fis b>16\p\< (<g e'> <fis d'> <g b>)\! <gis d'>4\> (<ais cis>8)\! r8 r4 fis'16\p (e_.) e_. e_. g (fis_.) fis_. fis_. b, (ais_.) ais_. ais_. cis (b_.) b_. b_. fis (e_.) e_. e_. g (fis_.) e_. d_. cis_. d_. cis_. b_. ais8 r8
}

Tiếp theo, viola xuất hiện với chủ đề [en] 1 Allegro giọng Si thứ. Đây là phiên bản nhanh hơn của chủ đề mở đầu. Phần này giới thiệu một mô-típ đặc trưng: chuỗi âm đi xuống kéo dài trọn một quãng tám. Mô-típ này được lặp lại nhiều lần trong suốt bản giao hưởng. Cuối cùng, đoạn nhạc dẫn đến một khoảng ngắt dài giữa chương, mở đường cho chủ đề 2 giọng Rê trưởng.

\relative c'' {
        \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 69
        \set Staff.midiInstrument = #"violin"
        \set Score.currentBarNumber = #90
        \key b \minor
        \time 4/4
        \set Score.currentBarNumber =  ""
        \partial 2
        r8^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Andante } }
            }
        }
\mark \markup { "Chủ đề 2" }
 fis(\p e d \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #2.5
        b(\< a fis a)\! d4.(\> b8)\!
        a2~ a8 fis'( e d) \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #3
        a(\< fis d fis)\! b4.(\> a8)\! \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #1
        a2\< a'4--\f g8( fis)
        fis4(-> e) g--\> fis8( e)\!
        e4(->\mf\< d)\! r8 fis(\f\> e d)\! \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #2.5
        a(\< fis d fis)\! b4.(\> a8)\! \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #1
        a2\< a'4--\f g8( fis)
        fis4(-> e) g--\> fis8( e)\!
        e4(->\mf\< d)\! r8 fis(\f\> e d)\! \override DynamicLineSpanner.staff-padding = #3
        a(\< fis d fis)\! b4.(\> a8)\!
        a2
}

Chủ đề 2 tràn đầy năng lượng được chơi bởi violin và cello. Chủ đề này có phần tương đồng với aria Le fleur que tu m’avais jetes trong opera Carmen của Georges Bizet, khi Don José hát: "Car tu n’avais eu qu’à paraître, Qu’à jeter un regard sur moi, Pour t’emparer de tout mon être." Đây là tác phẩm yêu thích của Tchaikovsky.[42]


\relative c'{
\set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 144
\set Staff.midiInstrument = #"trombone"
\clef tenor
\key c \major
\time 4/4
\set Score.currentBarNumber = "201"
        \partial 4
        ^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Allegro vivo } }
            }
        }
\mark \markup { "Đoạn cầu hồn trong phần phát triển" }
<f, d'>4\p (_"cantabile")  ~<f d'>2 <f c'>2 <f d'>2 <a f'>2 <g e'>2 <g d'>2 <e a>2. ~<e a>8.
}

Đột nhiên, dàn nhạc bùng nổ. Phần phát triển [en] bắt đầu. Hòa âm bán giảm được sử dụng, tạo cảm giác bất ổn và dẫn dắt đến giọng Rê thứ. Âm nhạc bỗng trở nên yên ả hơn. Và trên những chuyển động lo lắng liên tục của dàn dây, trombone ngân vang câu trích dẫn từ bài thánh ca Chính thống giáo: “Hỡi đức Chúa và những vị thánh, hãy ban cho tâm hồn con chiên của người sự bình an” [sic], lời cầu nguyện truyền thống dành cho người đã khuất.[42] Ngay sau đó, âm nhạc chuyển liền mạch sang đoạn nhạc được phát triển từ chủ đề 1 với cường độ fortissimo. Điều này tạo sự tương phản rõ nét với bầu không khí do dự đầu đoạn Allegro. Tchaikovsky nhanh chóng đưa người nghe vào một thế giới ám ảnh hơn. Đỉnh điểm là sự bùng nổ của tuyệt vọng và đau khổ ở giọng Si thứ (báo trước chương cuối). Cảnh tượng này được tô đậm bằng mô-típ 4 nốt mạnh mẽ lặp đi lặp lại trên dàn kèn đồng. Sự bùng nổ này kết thúc bằng một nốt đầy uy lực của trombone với cường độ cực hiếm ffff. Phần này khép lại với những âm thanh tắt dần của bè trầm và dàn kèn đồng, để lại dư âm bi thương và báo hiệu nổi u sầu sắp tới của toàn bộ tác phẩm. Chương nhạc kết thúc ngay sau phần tái hiện chủ đề 2, lần này ở giọng trưởng chủ âm (Si trưởng). Đoạn coda [en] cũng được viết ở giọng Si trưởng, và toàn bộ chương nhạc kết thúc trong im lặng.

Các thuật ngữ “phát triển” và “tái hiện” được sử dụng linh hoạt khi mô tả hình thức của chương nhạc này. Về cấu trúc, Chương I thuộc dạng sonata loại 2 [en]. Hình thức này gồm 3 phần: Trình bày - Phát triển - Tái hiện. Tuy nhiên, phần tái hiện không có chủ đề 1 ở giọng chủ. Trong chương này, đoạn kết là một cadence không trọn vẹn.[z] Điều này khiến chương nhạc trở thành một ví dụ điển hình của "sonata thất bại," khái niệm dùng để chỉ những bản sonata không đạt được kết thúc trọn vẹn như kỳ vọng.[52]

II. Allegro con grazia

[sửa | sửa mã nguồn]

    \relative c {
        \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 144
        \set Staff.midiInstrument = #"cello"
        \clef bass
        \key d \major
        \time 5/4
        fis4\mf(^\markup { \translate #'(-3.5 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Allegro con grazia } }
            }
        }
\mark \markup { "Chủ đề 1" }
        g) \tuplet 3/2 { a8(\< g a } b4 cis)\!
        d( b) cis2.\>
        a4(\mf b) \tuplet 3/2 { cis8(\< b cis } d4 e)\!
        \clef tenor
        fis(\f d) e2. \break
        g4( fis) \tuplet 3/2 { e8( fis e } d4 cis)
        fis8-. [ r16 g( ] fis8) [ r16 eis( ] fis2.)
        fis4( e) \tuplet 3/2 { d8( e d } cis4) b\upbow(\<^\markup { \italic gliss. }
         b'8)\ff\> [ a( g) fis-. ] e-. [ es-.( d-. cis-. b-. bes-.) ]
        a4\mf
}

Chương II là một điệu nhảy giọng Rê trưởng, viết theo hình thức ba đoạn [en] và sử dụng nhịp 5
4
. Nhiều nhà phê bình gọi đây là bản waltz "tập tễnh," "thiếu nhịp."[aa][53][54] Giai điệu chính phần A được chơi bởi cello, tạo nên không khí duyên dáng và mềm mại, tương phản với phần B. Các đoạn giọng trưởng mang xu hướng đi lên, tương phản với mô-típ âm đi xuống từng xuất hiện ở Chương I.

\layout { indent = 1.0\cm }
\new Score {
  \time 5/4
        <<
          \new Staff {
            \relative c'' {
                \tempo "Allegro con grazia" 
                  \clef "treble"
        \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 144
                  \set Staff.midiInstrument = #"violin"
                \key b \minor
\mark \markup { "Chủ đề 2" }
                fis4.\downbow\p^\markup {\italic "arco"}^\markup { \italic "dolcezza flebile" }\< (fis8)\tenuto\! fis2\upbow\> (e4\!) d4.\< (d8)\tenuto\! d2\> (cis4\!) b4.\< (b8)\tenuto\! d2\> (cis4\!) b4.\< (b8)\tenuto\! g2\> (fis4\!)
                }
            }
        >>
}

Phần B tối hơn giọng Si thứ, giọng chủ âm của toàn bộ bản giao hưởng. Chủ đề này được chơi trên flute 1, violin 1 và cello. Đoạn coda rời rạc vượt qua các chuỗi âm, man mác trước khi khép lại bằng những gợn sóng êm dịu.

III. Allegro molto vivace

[sửa | sửa mã nguồn]
\relative c'' {
        \tempo "Allegro molto vivace"
        \set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4. = 152
        \clef treble
        \key g \major
        \time 12/8
        \set Staff.midiInstrument = #"violin"
          \mark \markup { "Chủ đề 1" }
        b8\p-.^\markup{"Vln."} g-. b-. a-. gis-. a-. c-. a-. c-. b-. ais-. b-.
        c-. d-. e-. fis-. e-. d-. e-. fis-. g-. fis-. g-. a-.\break
        \set Staff.midiInstrument = #"flute"
        e'-.^\markup{"Fl."} d-. e-. d-. e-. d-. e-. d-. e-. d-. e-. d-.
        \set Staff.midiInstrument = #"violin"
        e->(^\markup{"Vln."} d c b a g)
        \set Staff.midiInstrument = #"clarinet"
        e->(^\markup{"Cl."} d c b a g)
}

Chương III chỉ có phần chủ đề và tái hiện. Không có phần phát triển, chỉ có hai ô nhịp ngắn đóng vai trò chuyển tiếp rời rạc. Chương nhạc sử dụng nhịp kép [en] 12
8
4
4
, được viết theo hình thức sonatina. Giai điệu chính chủ đề 1 được chơi trên violin, flute và clarinet. Chương nhạc mở đầu bằng đoạn scherzo mang sắc thái vui tươi, có tính chất hành khúc với dàn dây nhịp 12
8
chơi nhanh, liên tục trên các nốt móc kép đối lại kèn gỗ mạnh mẽ nhịp 4
4
. Sau đó, dàn dây chuyển xuống làm nền cho bộ gỗ. Tiếp theo là chủ đề 2 đầy hân hoan giọng Mi trưởng được trình bày bởi dàn clarinet đồng âm và phần đệm của dàn dây. Chủ đề 1 quay trở lại với sắc thái mạnh mẽ hơn. Sau những chuỗi âm điệu đối nhau giữa dàn dây và bộ gỗ, chủ đề 2 xuất hiện trở lại đầy khải hoàn ở giọng Sol trưởng. Đây cũng là lần duy nhất bass drum và cymbal được sử dụng trong bản giao hưởng.

\relative c'{
\set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 152
\set Staff.midiInstrument = #"violin"
\clef treble
\key g \major
\time 4/4
 \bar "283"
        \partial 1
        ^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { Violin 1 & 2 }
                \line { \bold { Allegro molto vivace } }
            }
        }
\mark \markup { "Chủ đề 2" }
g''8\fff  r8 d8-. (r16 d16-.) g8 r8 d8 r8 g8-> c8~-> c2 <b, b'-.>8 (r16 <a a'-.>16) <d, d' d'>8 r8 \acciaccatura {<a' a'>8} <g-. g'>8 (r16 <fis fis'-.>16) <g g'-.>8 r8 <d a' d>8 r8 g'2.->
}

Chương nhạc kết thúc bằng đoạn finale cùng coda chiến thắng đánh lừa người nghe, tạo cảm giác bản giao hưởng đã kết thúc. Giai điệu chính được chơi trên flute, piccolo và violin. Một lần nữa Tchaikovsky sử dụng mô-típ chuỗi âm đi xuống. Lần này ở bộ đồng.

Chính coda đánh lừa này khiến những người nghe chưa tìm hiểu kĩ về tác phẩm vỗ tay. Trong văn hóa thường thức nhạc hàn lâm, việc vỗ tay giữa các chương khi tác phẩm chưa kết thúc là điều cấm kỵ.[55]

Không phải ngẫu nhiên mà chương này, với tính cách bão tố thể hiện qua dàn dây đầy xao động, tiếng huýt sáo như gió lùa của bộ gỗ và âm thanh vang dội của bộ đồng, lại gợi nhớ đến chương cuối Giao hưởng số 3 "In the forest" [en] của Joachim Raff [en].[56] Tác phẩm này là một trong những bản giao hưởng được biểu diễn nhiều nhất thời bấy giờ, và Tchaikovsky cũng chịu ảnh hưởng từ Raff trong Giao hưởng số 5, đặc biệt là đoạn solo kèn cor nổi tiếng.[57]

IV. Adagio lamentoso

[sửa | sửa mã nguồn]

 \layout { indent = 1.0\cm }
\new Score {
  \time 3/4
        <<
          \new Staff {
            \relative c'' {
                \set Staff.instrumentName = #"Vln. 1"
                  \set Staff.midiInstrument = #"violin"
                \key b \minor
  \tempo "Adagio lamentoso"
 \tempo 4 = 54

          \mark \markup { "Chủ đề 1" }
                b4--\f e8( gis,) cis8.(\> eis,16)\!
                cis'2~\mf\> cis8\p r8
                b4--\f e8( gis,) cis8.(\> eis,16)\!
                d'8->(\mf\> cis~ cis4~ cis8)\! r8
                g4.(\p g8--) g8.--( a16--)
                fis2
                }
            }
        \new Staff {
            \relative c'' {
                \clef "treble"
                \set Staff.instrumentName = #"Vln. 2"
                  \set Staff.midiInstrument = #"violin"
                \key b \minor
                fis4--\f ais,8( d) eis,8.(\> b'16)\!
                e,!2~\mf\> e8\p r8
                fis'4--\f ais,8( d) eis,8.(\> b'16)\!
                e,!2~\mf\> e8\! r8
                b4.(\p b8--) b8.--( a16--)
                a2
                }
            }
        >>
}

Trở lại với Si thứ, Chương IV mở đầu bằng hòa âm bán giảm đầy ấn tượng. Chương nhạc được viết theo hình thức rondo sonata [en], với cấu trúc A-B-A-C-A-B. Chủ đề đoạn A được chơi bởi violin 1 và 2. Chủ đề này được lặp lại nhiều lần xuyên suốt chương nhạc, với cường độ và tốc độ thay đổi linh hoạt. Đây là "giai điệu tổng hợp," nghĩa là cả violin 1 lẫn violin 2 đều không chơi trọn vẹn tuyến giai điệu bè cao mà người nghe cảm nhận được.[58]

\relative c'{
\set Score.tempoHideNote = ##t \tempo 4 = 76
\set Staff.midiInstrument = #"violin"
\clef treble
\key d \major
\time 3/4
        ^\markup {  \translate #'(-4 . 0)
              \column {
                \line { \bold { Adante } }
            }
        }
          \mark \markup { "Chủ đề 2" }
r4 r4 d'4\pp\tenuto\< d4\!\>^\markup { \italic "con lenezza e devozione" } (cis4\! b4) a2 d4\pp\tenuto\< d4\!\> (cis4\! b4) \once \override TextSpanner.bound-details.left.text = #"cresc."
\override TextSpanner.style = #'dashed-line \override TextSpanner.direction = #DOWN \override TextSpanner.dash-fraction = #0.3
\override TextSpanner.dash-period = #0.8 a2\startTextSpan fis'4\tenuto fis4 (e4) g4\tenuto g4 (fis4) \stopTextSpan a4\tenuto\mf a4 (g4 b,4) e2\> d4\!\tenuto\p\<

}

Chủ đề B giọng Rê trưởng nhẹ nhàng hơn trên violin 1 và viola dần được phát triển thành bức tranh âm thanh đầy đủ của toàn bộ dàn nhạc. Những đoạn kèn đồng mạnh mẽ kết hợp với chuỗi âm đi xuống đẩy cao trào đến một điểm ngắt ở hợp âm Đô trưởng Neapolitan. Sau đó, chủ đề B được biến đổi đầy kịch tính khi quay lại giọng Si thứ, trước khi chủ đề A xuất hiện trở lại. Tương tự chương đầu tiên, phần phát triển (đoạn C) đạt đến cao trào dữ dội, với tiếng trombone nổi bật. Nối tiếp là chủ đề A ở trạng thái căng thẳng nhất, mở đầu phần tái hiện trên âm giữ [en] F# trầm. Âm nhạc dần lắng xuống. Tiếng tam-tam, biểu tượng của định mệnh, vang lên lần duy nhất trong toàn bộ tác phẩm. Âm thanh này mở ra một đoạn hợp xướng tang lễ bằng những hồi kèn trombone và tuba, khép lại hòa âm át. Chủ đề B quay trở lại, nhưng không còn là ánh sáng giữa mây mù như trước. Giờ đây, nó mang sắc thái đau buồn sâu sắc, trùng khớp với kết thúc giọng Si thứ. Những làn sóng đi xuống được chơi bằng kỹ thuật mute trên dàn dây. Âm thanh tiếp tục lan xuống các bè trầm và bassoon, rồi dần tan biến trong bi kịch tuyệt đối.

Trong số các bản giao hưởng của Tchaikovsky, đây là tác phẩm duy nhất kết thúc ở giọng thứ. Các bản giao hưởng số 1, 2, 45, cùng Giao hưởng Manfred [en] đều được viết ở giọng thứ, nhưng kết thúc bằng chủ âm giọng trưởng. Riêng Giao hưởng Số 3 có giọng chủ Rê trưởng, dù phần mở đầu được viết ở giọng Rê thứ. Giao hưởng bỏ dở Mi♭ trưởng [en][ab] cũng có âm chủ là Mi♭ trưởng.

Việc chương chậm xuất hiện cuối bản giao hưởng là điều khá bất thường. Sự đảo lộn về cấu trúc này tạo nên hiệu ứng u sầu, và đã trở thành đề tài phân tích của nhiều nhà phê bình âm nhạc.

Diễn giải

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản thảo Giao hưởng Số 6 của Tchaikovsky

Richard Taruskin [en], nhà phê bình về Tchaikovsky, viết:

Giả thuyết về việc Tchaikovsky tự sát được khơi dậy mạnh mẽ sau buổi công diễn Giao hưởng Số 6 dưới sự chỉ huy của chính tác giả, chỉ 9 ngày trước khi ông qua đời. Tác phẩm kết thúc bằng chương nhạc u buồn (morendo, tắt dần). Ngay từ Chương I, tác phẩm có một đoạn ngắn nhưng rõ ràng ám chỉ đến nghi lễ cầu hồn của Chính thống giáo. Đặc biệt, tiêu đề của tác phẩm dễ bị hiểu sai. [...] Khi bản giao hưởng được biểu diễn lại vài tuần sau đó trong một buổi tưởng niệm, lần này kèm tiêu đề chính thức, khán giả đã chăm chú lắng nghe để tìm kiếm những điềm báo. Chính điều đó đã khiến bản giao hưởng được xem như một bức "thư tuyệt mệnh." Trầm cảm là giả thuyết đầu tiên. Sau đó, giả thuyết về "bi kịch đồng tính" xuất hiện.[ac][59]

Nhà phê bình Alexander Poznansky [ru] nhận định: “Kể từ khi giả thuyết về "tòa án danh dự" xuất hiện ở phương Tây, các buổi biểu diễn bản giao hưởng cuối cùng của Tchaikovsky gần như luôn đi kèm với những chú thích, xem nó như một lời chứng cho bi kịch đồng tính.”[ad][60] Tuy nhiên, nhà phê bình David Brown [en] lại cho rằng việc xem Giao hưởng Số 6 như một bức thư tuyệt mệnh là “hoàn toàn vô lý.”[ae][61] Một số học giả khác, trong đó có Michael Paul Smith, tin rằng dù có hay không bản án từ "tòa án danh dự," Tchaikovsky không thể nào biết trước thời điểm qua đời khi ông viết kiệt tác cuối cùng của mình. Ngoài ra, có bằng chứng cho thấy ông không hề rơi vào trạng thái trầm cảm trong quá trình sáng tác. Sau khi Tchaikovsky gửi bản thảo đi xuất bản, em trai ông có ghi lại: “Đã lâu lắm rồi tôi mới thấy anh ấy rạng rỡ đến vậy.”[af][58]

Đề tặng và giả thuyết về chương trình

[sửa | sửa mã nguồn]

Tchaikovsky đề tặng Bi thương cho cháu trai Vladimir "Bob" Davydov [ru], người ông cực kỳ yêu quý.[62]

Bi thương từng là đề tài của nhiều giả thuyết xoay quanh chương trình được ẩn trong tác phẩm. Nguồn gốc những suy đoán này bắt đầu từ buổi công diễn đầu tiên, khi nhà soạn nhạc Nikolai Rimsky-Korsakov hỏi Tchaikovsky liệu bản giao hưởng mới có theo nội dung chương trình nào không. Tchaikovsky khẳng định có, nhưng từ chối tiết lộ chi tiết.[63]

Một giả thuyết chương trình được đề xuất đã bị Taruskin mỉa mai gọi là "giao hưởng tuyệt mệnh."[ag][64] Ý tưởng này lan rộng từ buổi biểu diễn thứ hai tại St. Petersburg, không lâu sau khi Tchaikovsky qua đời. Khán giả tại buổi hòa nhạc ấy "đã chăm chú lắng nghe để tìm kiếm những điềm báo. Và như thường lệ, họ đã tìm thấy điều mình muốn: một đoạn trích ngắn từ nghi lễ cầu hồn của Chính thống giáo ở cao trào Chương I; cùng với Chương IV Adagio bất thường, mở đầu bằng những hòa âm căng thẳng và kết thúc đầy ám ảnh với ánh sáng lụi tàn."[ah][64] Tuy nhiên, chính Tchaikovsky từng khẳng định vào ngày 26 tháng 9 (lịch mới: ngày 8 tháng 10) năm 1893 rằng ông không có tâm trạng để viết nhạc cầu hồn. Đây là lời phản hồi đề nghị từ Đại công tước Konstantin [ru], người bạn thân của Tchaikovsky, rằng ông nên viết một bản cầu hồn cho nhà văn Aleksey Apukhtin, người bạn chung vừa qua đời cuối tháng 8, đúng lúc Tchaikovsky đang hoàn tất Giao hưởng Bi thương.[65][66]

Mô-típ [en] "chữ thập" của Tchaikovsky gắn liền với hình ảnh đóng đinh trên thập giá, với chính bản thân ông và với Tristian [en]. Trong Giao hưởng Số 6 Bi thương, biến thể của mô-típ này xuất hiện lần đầu ở ô nhịp 1-2.[67] Tchaikovsky xem mô-típ này như biểu tượng của những mối tình ngang trái và định mệnh trớ trêu, điển hình là tác phẩm Romeo và Juliet.[67]

David Brown [en], chuyên gia nghiên cứu về Tchaikovsky, cho rằng giao hưởng này phản ánh sức mạnh của số phận trong cuộc sống và cái chết.[68] Nội dung chương trình này không chỉ tương đồng với những gì được gợi ý cho Giao hưởng Số 4Số 5, mà còn có điểm chung với chương trình được chính Tchaikovsky soạn cho Giao hưởng Mi♭ trưởng [en] bị bỏ dở.[68] Trong bản thảo đó, ông viết: "Bản chất cuối cùng [...] của bản giao hưởng là cuộc sống. Phần đầu – tất cả sự bốc đồng, đam mê, tự tin, khát khao hành động. Phải ngắn gọn (chương kết là cái chết – kết quả của sự sụp đổ). Phần hai là tình yêu, phần ba là những thất vọng, phần bốn kết thúc bằng sự lụi tàn (cũng ngắn)."[ai][69]

Simon Karlinsky, nhà soạn nhạc[70] kiêm giáo sư ngành ngôn ngữ và văn học Slavic tại Đại học California, Berkeley, từng được xem là "chuyên gia về đồng tính luyến ái trong văn hóa tiền Soviet."[aj][71] Năm 1988, trong bài viết trên tạp chí văn học đồng tính Christopher Street [en], ông kể rằng vào năm 1941, một người bạn thời trẻ của ông là Alex, người từng có thời gian gắn bó với họa sĩ Pavel Tchelitchew [en], đã kể lại một câu chuyện truyền miệng. Theo đó, Tchelitchew từng nghe từ Modest [ru], em trai Tchaikovsky, rằng chính nhà soạn nhạc đã tiết lộ với ông nội dung bí mật của bản giao hưởng. Theo câu chuyện này, thứ Karlinsky gọi là "lời đồn không nhớ rõ,"[ak] chương trình của bản giao hưởng xoay quanh chuyện tình của những người đàn ông. Cụ thể, cuộc tìm kiếm tình yêu bắt đầu từ Chương I. Tình yêu được tìm thấy trong chủ đề andante lãng mạn (ô nhịp 89). Sau đó là sự tấn công của thế giới thù địch, thể hiện qua đoạn allegro vivo đầy xáo động (ô nhịp 161). Cuối cùng là sự thoát ly, khi chủ đề tình yêu quay trở lại ở đoạn andante come prima (ô nhịp 305). Karlinsky cho biết, theo lời kể này, Chương IV là khúc bi ca dành cho người tình đã khuất.[72]

Bản thảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng phổ viết tay của Tchaikovsky hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Âm nhạc Quốc gia Nga ở Moskva (ф. 88, số 60). Trên trang bìa tổng phổ, ông ghi dòng đề tặng: “Gửi Vladimir Lvovich Davydov [ru]. Giao hưởng Pathétique Số 6. Sáng tác bởi P. Tchaikovsky, Op.???”[al][42] Cũng trên trang này, có hai ghi chú của nhà soạn nhạc. Ghi chú đầu tiên được viết vào ngày ông hoàn thành tổng phổ: "Tôi đề nghị đảm bảo rằng khi chép các phần nhạc, mọi ký hiệu đều phải khớp chính xác với bản tổng phổ. P. Tchaikovsky. Ngày 19 (lịch mới: ngày 31) tháng 8 năm 1893."[am] Ghi chú thứ hai có vẻ được thêm vào sau buổi biểu diễn đầu tiên của bản giao hưởng: "Tôi đã sửa một số chi tiết trong Chương II và III, cần cập nhật vào các phần nhạc!!! Nhờ ngài Kleinecke[an] xử lý việc này."[ao][73]

Ngoài ra, Bảo tàng Âm nhạc Quốc gia Nga còn lưu giữ 16 tờ bản thảo khác (ф. 88, số 60a). Những bản thảo này là các đoạn nhạc bị loại bỏ khỏi bản giao hưởng hoàn chỉnh của Tchaikovsky.[73]

Bản chuyển soạn cho piano 4 tay do chính nhà soạn nhạc viết hiện đã thất lạc. Tuy nhiên, một bản chép tay của ông vẫn được lưu giữ tại Cơ quan Lưu trữ Nhà nước Nga về Văn học và Nghệ thuật [ru]Moskva (ф. 952, số 725a)

Ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng

[sửa | sửa mã nguồn]

Giao hưởng Số 6 giữ vai trò quan trọng trong tiểu thuyết Maurice [en] của nhà văn E. M. Forster [en]. Tác phẩm được viết từ năm 1913, nhưng mãi đến năm 1971 mới được xuất bản. Trong tiểu thuyết này, bản giao hưởng được sử dụng như một cách ẩn dụ tinh tế nhằm ám chỉ chủ đề đồng tính luyến ái.[74]

Ngày 8 tháng 8 năm 1962, trích đoạn Giao hưởng Số 6 của Tchaikovsky đã được phát tại tang lễ của Marilyn Monroe.[75]

Ngày 4 tháng 12 năm 2020, Now and Forever của Edward Vito chính thức được phát hành trên các nền tảng nghe nhạc trực tuyến.[76][77] Nằm trong album Moon Love. A Collection of Tchaikovsky Themes, tác phẩm được xây dựng dựa trên Chủ đề 1 Chương I trong Giao hưởng Số 6 của Tchaikovsky, với phần trình diễn độc tấu trên đàn harp. Đáng chú ý, toàn bộ album được phát hành lần đầu vào ngày 5 tháng 12 năm 1942, gần 80 năm trước đó.[78]

  1. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "in one of his frequent moods of depression and doubt over his alleged inability to create"
  2. ^ Trên thực tế, bản thảo giao hưởng này vẫn còn. Đó là Giao hưởng Mi♭ trưởng [ru] bị bỏ dở. Về sau, Tchaikovsky đã viết Chương I Piano Concerto Số 3 [en] dựa trên ý tưởng này. Rất tiếc, ông qua đời trước khi kịp hoàn thành tác phẩm. Sergei Taneyev đã viết tiếp hai chương cuối cho bản concerto.
  3. ^ Nguyên văn tiếng Anh: "The symphony is only a work written by dint of sheer will on the part of the composer; it contains nothing that is interesting or sympathetic. It should be cast aside and forgotten. This determination on my part is admirable and irrevocable."
  4. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "You know I destroyed a symphony I had been composing and only partly orchestrated in the autumn. [...] During my journey I had the idea for another symphony, this time with a programme, but such a programme that will remain an enigma to everyone—let them guess; the symphony shall be entitled: A Programme Symphony (No. 6); Symphonie à Programme (No. 6); Programm-Symphonie (No. 6). The programme itself will be suffused with subjectivity, and not infrequently during my travels, while composing it in my head, I wept a great deal. Upon my return I sat down to write the sketches, and the work went so furiously and quickly that in less than four days the first movement was completely ready, and the remaining movements already clearly outlined in my head. The third movement is already half-done. The form of this symphony will have much that is new, and amongst other things, the finale will not be a noisy allegro, but on the contrary, a long drawn-out adagio. You can't imagine how blissful I feel in the conviction that my time is not yet passed, and to work is still possible. Of course I might be mistaken, but I don't think so."
  5. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Begun on Thursday 4th Febr[uary]. Finished on Tuesday 9th Febr[uary 18]93."
  6. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "All my thoughts are now taken up with a new composition (a symphony), and it's very difficult for me to break away from this work. It seems to me that this is the best work I have ever produced. This symphony must be finished as quickly as possible, for I have a great deal of other work. [...]"
  7. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Leaving today 11 Febr[uary]. On returning, the first thing to compose is the ending, i.e. the march in G major on the theme in a solemnly triumphant manner. Then there's still the first statement of the march in C major, starting from this page, and also the reprise of the scherzo with changes and a pedal on D."
  8. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I arrived home from Kharkov last night. [...] Over the coming days I'll be busy finishing off the sketches of the finale and scherzo of the new symphony."
  9. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Today 24 March, finished the rough sketches completely!!!"
  10. ^ tức Giao hưởng E♭ trưởng
  11. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I cannot believe how much I have done since the winter, [...] albeit in fits and starts while I was at home. I don't know whether I wrote to you that I had prepared a symphony and suddenly became disappointed and tore it up. Recently, in fits and starts, I managed to compose a new one, and this will certainly not be torn up."
  12. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I will stay here [at Ukholovo] for five days, [...] and then travel to Klin. I must confess to wanting to be by myself, although it is not possible to go home, which I need to do in order to start the instrumentation of two new large works, i.e. the symphony (with which I am very pleased) and the piano concerto, [...] now I must hurry so that all this will be ready for 1 September."
  13. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I have been idle for far too long and now I am thirsty for work. Tomorrow, I shall immerse myself in the new symphony."
  14. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I'm now immersed up to my neck in the symphony. The instrumentation is increasingly difficult for me to do. Twenty years ago I went full steam ahead without thinking, and it would come out well. Now I've become cowardly, unsure of myself. Today I sat the whole day over two pages — nothing came out as I wanted. But still, the work is progressing. [...]"
  15. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I'm scoring the symphony and, it's a funny thing, but I'm finding it terribly difficult, i.e. I'm unhappy with everything, I want to do everything better—but how? I don't know! But in any case, I think that you will praise this symphony."
  16. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "[...] coming along. I'm very pleased with its content, but dissatisfied, or rather not completely satisfied, with the instrumentation. For some reason it's not coming out as I intended. To me it would be typical and unsurprising if this symphony were torn to pieces or little appreciated, for it wouldn't be for the first time that had happened. But I absolutely consider it to be the best, and in particular, the most sincere of all my creations. I love it as I have never loved any of my other musical offspring."
  17. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Soon I will finish scoring the third movement of the symphony, then in two or three days more I shall set about the finale, which should not take me more than three days. Then I must do the arrangement for 4 hands myself."
  18. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I am doing the 4-hand arrangement of the new symphony myself!!!"
  19. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "My work is going very well, but I can't write as quickly as before; but not because I'm becoming feeble through old age, rather because I'm being much stricter with myself, and don't have my former self-confidence. I am very proud of my symphony, and think that it's my best composition."
  20. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "[...] And so: abgemacht!!! On 10 October I will play the symphony, which, by the way, will be completely ready in a day or two."
  21. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I have finished the symphony; only the markings and tempi remain to be inserted. With regard to the bowings, I intend to consult with Konyus, who is coming to see me about this in the next few days with his violin and younger brother Lev. The latter will be essential for playing through the arrangement, which I have also made myself."
  22. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I think it will be successful; it is rare for me to write anything with such love and enthralment."
  23. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I can honestly say that never in my life have I been so pleased with myself, so proud, or felt so fortunate to have created something as good as this."
  24. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Something strange is happening with this symphony! It's not that it displeased, but it has caused some bewilderment. So far as I myself am concerned, I'm more proud of it than any of my other works. [...]"
  25. ^ Theo hệ thống kí hiệu tiếng Đức, B là Si giáng, H là Si bình.
  26. ^ Tức imperfect authentic cadence (IAC). Đây là hòa âm V về I, nhưng bậc I ở thể đảo, bè soprano không về chủ âm hoặc hợp âm V chuyển sang các hợp âm khác thay thế bậc I. Điều này tạo ra một kết thúc kém dứt khoát, mang cảm giác tiếp nối hơn kết thúc hoàn toàn.
  27. ^ Vì nhịp 5
    4
    là 2 nhịp 3
    4
    hợp thành, nhưng bị thiếu 1 nhịp.
  28. ^ Thường được gọi không chính thức là Giao hưởng Số 7
  29. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Suicide theories were much stimulated by the Sixth Symphony, which was first performed under the composer's baton only nine days before his demise, with its lugubrious finale (ending morendo, dying away), its brief but conspicuous allusion to the Orthodox requiem liturgy in the first movement and above all its easily misread subtitle. [...] When the symphony was done again a couple of weeks later, in memoriam and with subtitle in place, everyone listened hard for portents, and that is how the symphony became a transparent suicide note. Depression was the first diagnosis. "Homosexual tragedy" came later."
  30. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "Since the arrival of the "court of honour" theory in the West, performances of Tchaikovsky's last symphony are almost invariably accompanied by annotations treating it as a testimony of homosexual martyrdom."
  31. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "patent nonsense"
  32. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I had not seen him so bright for a long time past."
  33. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "symphony as suicide note"
  34. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "listened hard for portents. As always, they found what they were looking for: a brief but conspicuous quotation from the Russian Orthodox requiem at the stormy climax of the first movement, and of course the unconventional Adagio finale with its tense harmonies at the onset and its touching depiction of the dying of the light in conclusion"
  35. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "The ultimate essence [...] of the symphony is Life. First part – all impulse, passion, confidence, thirst for activity. Must be short (the finale death – result of collapse). Second part love, third disappointments, fourth ends dying away (also short)."
  36. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "an expert on homosexuality in pre-Soviet culture"
  37. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "poorly remembered hearsay"
  38. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "To Vladimir Lvovich Davydov. Pathétique Symphony No. 6. Composed by P. Tchaikovsky, Op.???"
  39. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I urge you to ensure when writing out the parts that all the markings in the parts correspond exactly to the full score. P. Tchaikovsky. 19 August 1893."
  40. ^ Albert Karlovich Kleyneke (tiếng Nga: Альберт Карлович Клейнеке), người chơi double bass cho Nhà hát Hoàng gia Sank Peterburg.
  41. ^ Dịch từ văn bản tiếng Anh: "I made some corrections in the 2nd and 3rd movements, which need to go into the parts!!! Ask Mr. Kleinecke to attend to this."
  1. ^ Nguyễn Bách (2021). Từ điển Giải thích Thuật ngữ âm nhạc. Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. tr. 62. ISBN 978-604-335-342-6.
  2. ^ a b ""патетическая" là gì? Nghĩa của từ патетическая trong tiếng Việt. Từ điển Nga-Việt". vtudien.com. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2025.
  3. ^ "pathétique trong Tiếng Việt, dịch, Tiếng Pháp - Từ điển Tiếng Việt | Glosbe". vi.glosbe.com. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2025.
  4. ^ a b Hohman, Cindy. "Passionate, Not Pathetic: Tchaikovsky's Symphony No. 6". coloradomusicfestival.org (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2025.
  5. ^ a b c "Tchaikovsky: Giao hưởng số 6 | Website Nhạc Cổ Điển". Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  6. ^ a b "TCHAIKOVSKY | Symphony no. 6 | HK Phil". www.hkphil.org. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2025.
  7. ^ Steinberg 1995, tr. 635.
  8. ^ Poznansky 1991, tr. 603.
  9. ^ Tchaikovsky Research.net
  10. ^ "TŌN | Tchaikovsky's Symphony No. 6, Pathétique" (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2025.
  11. ^ Steinberg 1995, tr. 638.
  12. ^ coproduction with Jurgenson of Moscow most likely; also, see "Hofmeisters Monatsberichte" (bằng tiếng Đức). tháng 3 năm 1894. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2012.
  13. ^ Bagar 1947, tr. 754
  14. ^ quoted in Bagar 1947, tr. 754
  15. ^ "Letter 4865 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2025.
  16. ^ quoted in Bagar 1947, tr. 754
  17. ^ quoted in Bagar 1947, tr. 754
  18. ^ "Letter 4897 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  19. ^ "Letter 4901 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  20. ^ "Letter 4968 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  21. ^ "Letter 4975 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  22. ^ "Letter 4973 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  23. ^ "Letter 4974 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  24. ^ "Letter 4979 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  25. ^ "Letter 4972 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  26. ^ "Letter 4969 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  27. ^ "Letter 4980 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2025.
  28. ^ "Letter 4984 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  29. ^ "Letter 4985 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  30. ^ "Letter 4998 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  31. ^ "Letter 4997 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  32. ^ "Letter 5004 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  33. ^ "Letter 5009 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  34. ^ "Letter 5005 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  35. ^ "Letter 5008 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  36. ^ a b "Letter 5010 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  37. ^ "Letter 5040 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  38. ^ "Letter 5019 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2025.
  39. ^ Saradzhev, Konstantin (1962). О П. И. Чайковском (bằng tiếng Nga). Moskva: Советский композитор. tr. 176–180.
  40. ^ State Central Archive for Literature and the Arts (ф. 880, No. 55)
  41. ^ Bukinik, Mikhail (1952). 25 октября 1893 года. Мой воспоминания о П. И. Чайковском (bằng tiếng Nga). New York: Новый журнал.
  42. ^ a b c d "Letter 5062 - Tchaikovsky Research". en.tchaikovsky-research.net. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2025.
  43. ^ "Hòa nhạc đặt vé trước số 162". Vietnam National Symphony Orchestra. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2025.
  44. ^ Thư của Pyotr Jurgenson gửi Modest Tchaikovsky vào ngày 8 (lịch mới: ngày 20) tháng 2 năm 1894.
  45. ^ IMSLP, score #504312, p. 19
  46. ^ a b c Del Mar 1983, tr. 180
  47. ^ a b c d Steinberg 1995, n. 19 on p. 640
  48. ^ a b c Fifield 2016, tr. 300
  49. ^ Nguyễn, Hải (2023). Trích giảng âm nhạc 2. Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh.
  50. ^ "Music in the Classical period - Haydn: Symphony No.101, second movement - AQA - GCSE Music Revision - AQA". BBC Bitesize (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2025.
  51. ^ "Symphony Form in Music: A History of the Symphony - 2025". MasterClass (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2025.
  52. ^ Wolfe, Daniel Robert (tháng 5 năm 2020). Popular but Disparaged: Sonata Structures in Tchaikovsky's Symphonies Four, Five, and Six (doctor of musical arts in bassoon performance dissertation). Moores School of Music, Kathrine G. McGovern College of the Arts, University of Houston. hdl:10657/6305. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  53. ^ "Tchaikovsky's Symphony # 6 (Pathetique), Classical Classics, Peter Gutmann". Classical Notes. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  54. ^ "Tchaikovsky's Symphony # 6 (Pathetique), Classical Classics, Peter Gutmann". Classical Notes. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  55. ^ Dobrian, Joseph. "Hold your applause, please!". Iowa City Press-Citizen (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2025.
  56. ^ Look at the scores or compare for example Stadlmair's recording of Raff's final (start from minute 11:00) with the last third of this movement.[cần nguồn tốt hơn]
  57. ^ "Tchaikovsky's view of Raff" (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2020.
  58. ^ a b Service, Tom (ngày 26 tháng 8 năm 2014). "Symphony Guide: Tchaikovsky's Sixth ('Pathetique')". The Guardian. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2018.
  59. ^ Taruskin, Richard (ngày 1 tháng 7 năm 2000). "The Essential Tchaikovsky". Russian Life. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2022.
  60. ^ Poznansky, Alexander (tháng 8 năm 1998). "'Tchaikovsky's Last Days': I". Music & Letters. 79 (3). Oxford University Press: 463–467. doi:10.1093/ml/79.3.463-c. JSTOR 855392.
  61. ^ Brown, David (tháng 11 năm 1997). "How Did Tchaikovsky Come to Die: And Does It Really Matter". Music & Letters. 78 (4). Oxford University Press: 581–588. doi:10.1093/ml/78.4.581. JSTOR 737640.
  62. ^ Poznansky 1991, tr. 558.
  63. ^ Rimsky-Korsakov 1942, tr. 339–340.
  64. ^ a b Taruskin 2009, tr. 133
  65. ^ Poznansky 1991, tr. 569.
  66. ^ Tchaikovsky Research: Aleksey Apukhtin. Retrieved 21 June 2015
  67. ^ a b Jackson 1999, tr. 51
  68. ^ a b Brown 1992, tr. 445
  69. ^ Brown 1992, tr. 388.
  70. ^ Hughes, Robert P.; McLean, Robert; Putney, Christopher; Taruskin, Richard (2010). "University of California Academic Senate: In Memoriam, Simon Karlinsky, Professor of Slavic Languages and Literatures, Emeritus, UC Berkeley, 1924–2009". Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2024.
  71. ^ Woo, Elaine (ngày 28 tháng 7 năm 2009). "Simon Karlinsky dies at 84; expert on Slavic languages and literature". Los Angeles Times. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  72. ^ Karlinsky, Simon (1988). "Should We Retire Tchaikovsky". Christopher Street. Quyển 11 số 3. New York. tr. 16–21.
  73. ^ a b "Симфония № 6 «Патетическая» / Чайковский: Открытый мир / Спецпроект портала Культура.рф". www.culture.ru. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2025.
  74. ^ Keeling, Bret L. (March 2003). " 'No Trace of Presence': Tchaikovsky and the Sixth in Forster's Maurice". Mosaic. 36 (1). University of Manitoba: 85–101. JSTOR 44030280.
  75. ^ Spoto 2001, tr. 594–597; Banner 2012, tr. 427–428.
  76. ^ "Now and Forever (Adapted аrom Symphony No. 6 in B minor, Op. 74)". Spotify. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2025.
  77. ^ "Edward Vito Discography - Download Albums in Hi-Res". Qobuz (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2025.
  78. ^ "Discography of American Historical Recordings". adp.library.ucsb.edu. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2025.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cross, Milton and Ewen, David, "Peter Ilitch Tchaikovsky", in vol. II of Milton Cross' Encyclopedia of Great Composers and Their Music (Garden City, New York: Doubleday, 1962).
  • Holden, Anthony, Tchaikovsky: A Biography (New York: Random House, 1995). ISBN 0-679-42006-1.
  • Keller, Hans, "Peter Ilyich Tchaikovsky", in vol. I of The Symphony, ed. Robert Simpson (Harmondsworth, 1966).
  • Ritzarev, Marina, Tchaikovsky's Pathétique and Russian Culture (Ashgate, 2014). ISBN 9781472424112.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]