Heroine Shikkaku

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Heroine Shikkaku
Bìa tập 1 của manga Heroine Shikkaku tại Nhật Bản
ヒロイン失格
Thể loạiLãng mạn, Đời thường
Manga
Tác giảKōda Momoko
Nhà xuất bảnShueisha
Đối tượngShōjo
Tạp chíBessatsu Margaret
Đăng tải13 tháng 3, 201013 tháng 3, 2013
Số tập9
Phim live-action
Đạo diễnHanabusa Tsutomu
Kịch bảnYoshida Erika
Âm nhạcYokoyama Masaru
Công chiếu19 tháng 9, 2015
Thời lượng / tập112 phút
 Cổng thông tin Anime và manga

Heroine Shikkaku (ヒロイン失格 (Heroine Thất Cách) Hiroin Shikkaku?, "n.đ.'Nữ chính mất tư cách'") là manga shōjo Nhật Bản được viết và minh hoạ bởi Kōda Momoko. Truyện được xuất bản bằng tiếng Pháp bởi nhà xuất bản Delcourt.[1][2] Một tập phim điện ảnh live action công chiếu từ ngày 19 tháng 9 năm 2015 do Hanabusa Tsutomu làm đạo diễn với sự góp mặt của diễn viên người mẫu Kiritani Mirei và nam diễn viên Yamazaki KentoSakaguchi Kentarō.

Cốt truyện[sửa | sửa mã nguồn]

Matsuzaki Hatori là một nữ sinh cấp ba thân thiện dễ gần, trừ việc nàng dùng toàn bộ thời gian rảnh để tưởng tượng về chuyện tình hường phấn giữa mình và cậu bạn thanh mai trúc mã – Terasaka Rita và coi tất cả mọi người xung quanh là những "nhân vật phụ" không đáng nhớ mặt đặt tên. Tuy nhiên, vào một ngày đẹp trời nọ, mộng tưởng của nàng hoàn toàn tan vỡ khi Terasaka chấp nhận lời tỏ tình từ Adachi Miho – một nữ sinh chuyên bị bắt nạt bởi bề ngoài của mình. Trong khi còn đang quay cuồng lên kế hoạch chiếm lại ngôi "nữ chính", Hatori lại phải đón nhận thêm một cơn sốc nữa khi Hiromitsu Kousuke, anh chàng nổi tiếng nhất trong trường, quyết định tỏ tình với nàng. Hatori đã chấp nhận lời hẹn hò với Kousuke nhưng rồi cô nhanh chóng nhận ra tình cảm thật sự của mình vẫn chỉ hướng về Rita.[3]

Nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]

Matsuzaki Hatori (松崎 はとり?)
Nữ sinh cao trung tự nhận mình là nữ chính của truyện tình với Rita - người bạn thơ ấu, và suy nghĩ rằng tất cả những người con gái khác là "nữ phụ".
Terasaka Rita (寺坂 利太?)
Cậu là bạn thơ ấu của Hatori. Cậu được Hatori tự phong cho là "nam chính" của truyện. Hai người họ gặp nhau từ khi mới 10 tuổi, ngay sau khi mẹ cậu đi bước nữa với người chồng trẻ hơn. Đến khi vào cao trung, hai người họ vẫn giữ mối quan hệ bạn bè với nhau. Rita làm quen và hẹn hò với một cô bạn tên Adachi vì ngưỡng mộ. Đến cuối truyện, Rita nhận ra ai mới là tình cảm thật sự của mình và cậu đã chia tay Adachi và đến với Hatori.
Hiromitsu Kōsukeu (弘光 廣祐?)
Cậu là bạn cùng trường của Hatori. Cậu là một chàng trai được nhiều cô gái yêu mến và mong muốn được hẹn hò ở trường. Sau một lần tình cờ gặp Hatori, cậu đã dành tình cảm của mình cho Hatori và hi vọng được hẹn hò với cô. Hatori chấp nhận hẹn hò với cậu nhưng khi tình cảm thật sự của cô chỉ dành cho Rita nên cô đã từ chối lời đề nghị làm bạn gái của Kōsukeu.
Adachi Miho (安達 未帆?)
Một cô gái được Rita hẹn hò sau khi hai lần cô được Rita cứu khi bị bắt nạt. Hatori xem cô là "nữ chính lí tưởng", trái ngược với bản ngã "nữ chính ác quỷ" của bản thân.

Đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Doanh thu[sửa | sửa mã nguồn]

Tập 7 bán ra được hơn 40 nghìn bản in (tính đến ngày 1 tháng 7 năm 2012),[4] tập 8 bán ra được 35 nghìn bản in (tính đến ngày 28 tháng 10 năm 2012),[5] và tập 9 bán được 45 nghìn bản in (tính đến ngày 2 tháng 3 năm 2013).[6]

Phòng vé[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh live action xếp hạng 1 tại các phòng vé tại Nhật Bản và đạt doanh thu 20,5 triệu đô la Mỹ.[7]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “No longer heroine”. manga-news.com (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  2. ^ “Fin de No Longer Heroine”. manga-news.com (bằng tiếng Pháp). 11 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  3. ^ “[Rating] Live-Action: HEROINE SHIKKAKU”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2017.
  4. ^ “Japanese Comic Ranking, June 25-July 1”. Anime News Network. 4 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ “Japanese Comic Ranking, October 22-28”. Anime News Network. 1 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  6. ^ “Japanese Comic Ranking, February 24-March 2”. Anime News Network. 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Mark Schilling (7 tháng 10 năm 2015). “Japan Box Office: 'Bakuman' Lands in Top Spot”. Variety.com. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2015.


Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]