Joss Stone

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Joss Stone
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhJocelyn Eve Stoker
Sinh11 tháng 4, 1987 (37 tuổi)
Dover, Kent, Anh Quốc
Thể loại
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • Viết nhạc
  • kịch sĩ
Nhạc cụca sĩ
Năm hoạt động2001–hiện tại
Hãng đĩa
Hợp tác vớiSuperHeavy
Websitewww.jossstone.com

Jocelyn Eve Stoker[1] (sinh ngày 11 tháng 4 năm 1987), được biết đến với nghệ danh Joss Stone, là nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và diễn viên người Anh. Stone nổi tiếng vào cuối năm 2003 khi đĩa nhạc đầu tay The Soul Sessions đạt chứng nhận đa Bạch kim[2][3] và được đệ trình cho giải Mercury.[4] Đĩa nhạc thứ hai, Mind Body & Soul (2004) giúp cô phá vỡ kỷ lục cho nữ nghệ sĩ trẻ tuổi nhất dẫn đầu UK Albums Chart[5] và đưa đĩa đơn thành công nhất của cô tại UK Singles Chart, "You Had Me" vào top 10.[6] Cả album lẫn đĩa đơn trên đều được đề cử tại giải Grammy lần thứ 47, trong khi chính Stone giành đề cử cho hạng mục "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất".[7] Album thứ ba của Stone, Introducing Joss Stone (2007) đạt chứng nhận đĩa vàng của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ, phá vỡ kỷ lục xếp hạng tuần đầu tiên của một nữ nghệ sĩ Anh Quốc và là album xếp hạng cao nhất của cô tại Hoa Kỳ.[8][9][10]

Hai sản phẩm tiếp theo của Stone, Colour Me Free! (2009)[11]LP1 (2011)[12] đều lọt vào top 10 Billboard 200.[13][14] Với 14 triệu đĩa bán được trên khắp thế giới, Stone trở thành nghệ sĩ nhạc soul có đĩa bán chạy nhất trong thập niên 2000 và là nghệ sĩ Anh thành công nhất trong thời của mình.[15][16] 3 đĩa đầu tiên của cô đã bán được 2.722.000 bản tại Hoa Kỳ, trong khi 2 đĩa đầu tiên trên 2 triệu bản tại Anh. Stone giành được 2 giải BRIT và 1 giải Grammy. The Soul Sessions Vol. 2 (2012), một đĩa tiếp nối đĩa nhạc đầu tiên của cô cũng đạt được top 10 trên Billboard 200. Stone là người phụ nữ trẻ tuổi nhất xuất hiện trong danh sách người giàu có nhất Anh Quốc của Sunday Times Rich List, với 6 triệu bảng Anh.[17][18] Vào năm 2012, tổng tài sản của cô ước tính đạt 10 triệu bảng Anh, giúp cô là nhạc sĩ Anh Quốc dưới 30 tuổi giàu có nhất.[19] Vào năm 2022, cô ấy đã tung ra một podcast về hạnh phúc có tên là A Cuppa Happy.[20]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Births – England & Wales 1984–2006”. findmypast.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
  2. ^ “Gold & Platinum”. Recording Industry Association of America. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2008.
  3. ^ “BPI Certified Awards – The Soul Sessions”. BPI. ngày 15 tháng 4 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2008.
  4. ^ “Ferdinand win Mercury Music Prize”. BBC News Online. ngày 8 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  5. ^ “US chart success for Joss Stone”. London: BBC News. ngày 13 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2008.
  6. ^ “UK best selling artists 2004”. Top40-Charts.com. ngày 5 tháng 5 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2008.
  7. ^ Frick, Lisa. “Joss Stone Biography”. Notable Biographies. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2009.
  8. ^ Hasty, Katie (ngày 28 tháng 3 năm 2007). “Modest Mouse Steers Its 'Ship' To No. 1 Debut”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2008.
  9. ^ James, Sarah-Louise (ngày 29 tháng 3 năm 2007). “Joss Beats Winehouse”. MTV UK. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2007.
  10. ^ Jenison, David (ngày 16 tháng 4 năm 2008). “That's the Spirit! Leona Lewis' Historic No. 1”. E! News. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2008.
  11. ^ Nicholl, Katie (ngày 7 tháng 3 năm 2009). “So cool Joss Stone blows her top over mystery album delay”. Daily Mail. London. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2008.
  12. ^ “Joss Stone Announces Release of New Album, LP1, on July 26”. JossStone.com. ngày 5 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2011.
  13. ^ Caulfield, Keith; Herrera, Monica (ngày 28 tháng 10 năm 2009). 'New Moon' Rises To No. 1 on Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  14. ^ Caulfield, Keith (ngày 3 tháng 8 năm 2011). “Eric Church Lands First No. 1 Album, Amy Winehouse Climbs into Top 5”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  15. ^ “jossstone.com”. jossstone.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2012.
  16. ^ “ACTUAL ARTICLE TITLE BELONGS HERE!”. jossstone.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2012.
  17. ^ “Harry Potter and Joss Stone richest UK teens”. Yahoo! Movies UK. ngày 8 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2008.
  18. ^ “The Sunday Times Rich List 2006”. Social Business Club. ngày 21 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2008.
  19. ^ “The Sunday Times Rich List 2012”. Sunday Times. ngày 12 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  20. ^ Pingitore, Silvia (24 tháng 10 năm 2022). “Soul & blues superstar Joss Stone about her 20 years in music: interview with the UK's Aretha Franklin” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]