Kiến trúc bản địa của người Carpathians
Bài viết này là một bài mồ côi vì không có bài viết khác liên kết đến nó. Vui lòng tạo liên kết đến bài này từ các bài viết liên quan; có thể thử dùng công cụ tìm liên kết. (tháng 3 2024) |
Kiến trúc địa phương là một phong cách kiến trúc được hình thành và phát triển dựa trên điều kiện khí hậu, văn hóa, vật liệu địa phương và kỹ thuật xây dựng truyền thống của một vùng miền cụ thể. Nó thường thể hiện sự hòa hợp giữa con người với môi trường xung quanh và mang đậm bản sắc văn hóa của địa phương.
Kiến trúc bản địa của người Carpathian dựa trên các nguồn văn hóa và môi trường để tạo ra những thiết kế độc đáo.
Ảnh hưởng của văn hóa - tín ngưỡng[sửa | sửa mã nguồn]
Chính thống giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Người Ukraina, người Nga và người România được ảnh hưởng bởi các văn hóa, truyền thống của Chính thống giáo Đông phương, nên kỹ thuật xây dựng của họ theo truyền thống đã kết hợp những thay đổi, điều chỉnh về mặt tôn giáo vào những công trình kiến trúc của họ, khác biệt với các kiểu kiến trúc đặc trưng khác ở Tây Âu.
Các nhà thờ được chia thành ba phần chính (tiền sảnh, thân nhà thờ, và cung Thánh). Hình dạng bên ngoài nhà thờ thường là hình Thánh giá, nhưng sẽ luôn bao gồm một mái vòm chính và các mái vòm phụ khác. Giáo dân quay mặt về phía đông trong khi thờ phượng và nhà thờ không có những băng ghế dài như của Công giáo.
Cổng vào và của sổ của nhà thờ đều hướng về phía Nam còn những bức tranh, tượng hay phù điêu khác thì được đặt ở một khu riêng, thường ở bờ tường Đông của nhà thờ.
Do Thái giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Các giáo đường Do Thái ở Đông-Trung Âu nổi tiếng với thiết kế hoàn toàn bằng gỗ độc đáo.
Materials and techniques[sửa | sửa mã nguồn]
Đặc điểm chi tiết khác nhau tùy theo từng địa phương nhưng phần lớn các ngôi nhà ở khu vực này theo truyền thống là mặt bằng hình chữ nhật một tầng; một hoặc hai phòng; một ống khói trung tâm; mái đầu hồi, mái hông hoặc mái hông; và bên ngoài được trát và quét vôi.
Vật liệu được sử dụng là những vật liệu có thể mua được tại địa phương, bao gồm gỗ (thường là gỗ sồi), bùn, rơm rạ, đá mỏ, vôi và phân động vật. Mái nhà ở những khu vực có nhiều cây cối và đồi núi thường được lợp bằng gỗ lắc hoặc ván lợp, trong khi những khu vực bằng phẳng hơn và thoáng hơn thường sử dụng rơm lúa mạch đen.
Vào cuối thế kỷ 19, hai loại hình xây dựng chiếm ưu thế, xây dựng bằng gỗ ngang và xây dựng khung và lấp đầy. Những bức tường bằng gỗ phổ biến ở những khu vực có sẵn gỗ. Ở những nơi có lượng gỗ rất kém hoặc thiếu gỗ nghiêm trọng, người ta dùng phên trét đất để thay thế.
Đối với việc xây dựng các khúc gỗ theo chiều ngang, các khúc gỗ cần phải được khía để giữ chặt với nhau. Phần rãnh yên đơn giản, dễ dàng xây dựng nhất nên rất phổ biến. Các khớp nối gỗ lại được sử dụng bởi những người thợ mộc giàu kinh nghiệm.
Nhiều người dân ở khu vực này trát những ngôi nhà bằng gỗ của họ từ trong ra ngoài để tránh ẩm, cải thiện khả năng cách nhiệt, che giấu những điểm không hoàn hảo trong xây dựng và để có giá trị thẩm mỹ chung. Thạch cao truyền thống được làm từ đất sét, nước, phân và rơm rạ hoặc trấu. Có thể phủ một số lớp để tạo độ mịn, sau đó phủ vôi và nước để tạo màu trắng dễ chịu và bảo vệ đất sét khỏi mưa.
Mái tranh là loại mái truyền thống nhưng đã không còn phổ biến trong hơn một thế kỷ qua vì chúng có thể gây nguy hiểm hỏa hoạn. Sàn nhà bẩn là phổ biến và được làm cứng bằng cách rửa bằng hỗn hợp phân, mặc dù sàn gỗ được ưa chuộng hơn.
Thông thường, bức tường dài của một ngôi nhà có chiều cao từ 26 foot (7,9 m) đến 30 foot (9,1 m) và bức tường bên từ 12 foot (3,7 m) đến 17 foot (5,2 m). Giữa ngôi nhà được bao phủ bởi một lò đất sét truyền thống (tiếng Ukraina: pich hoặc pietz)
Di sản thế giới[sửa | sửa mã nguồn]
- Wooden Churches of Ukraine
- Wooden Churches of Maramureş
- Carpathian Wooden Churches
- Wooden Churches of Southern Lesser Poland
- Zakopane Style of Architecture
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Lehr, John C., "Ukrainians in Western Canada" in To Build in a New Land (Baltimore and London: The Johns Hopkins University Press, 1992) pp 309–330.