Mariam Luyombo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mariam Luyombo (trước đây là Dorothy Nanziri) [1] là một doanh nhân giáo dục người Uganda và là giám đốc của các trường Taibah ở Uganda [2][3]

Hoàn cảnh & Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Mariam Luyombo đã học trường Cao đẳng Mount Saint Mary, Namagunga cho trường trung học.[1] Bà đã lấy bằng cử nhân và thạc sĩ về giáo dục từ Đại học MakerereKampala vào năm 1985 và 1997 và cũng đã tham gia một số khóa học về kinh doanh ở Uganda và Hoa Kỳ.[4]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Mariam Luyombo bắt đầu một giáo viên trung học tại Trường đại học Makerere trong khoảng thời gian 1987-1988 và sau đó tiếp tục đến trường trung học St. Joseph's Nsambya (1988-1990).[5] Sau đó, bà là hiệu trưởng của Trường nữ sinh Hồi giáo Nabisunsa.

Năm 1991, bà thành lập trường đầu tiên của mình, Taibah High School Kampala; sau đó bà lập Bạc Spoon Daycare Center Kampala vào năm 1996, Taibah Trường THCS Entebbe đường vào năm 1998, và Taibah Trường Cao đẳng Entebbe đường vào năm 2000.[6]

Năm 2013, bà là Giám đốc điều hành của Hiệp hội nữ doanh nhân Uganda (UweAL) Lưu trữ 2019-07-28 tại Wayback Machine.[5]

Thành tích và giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Các giải thưởng mà bà nhận được bao gồm các giải thưởng quốc gia đầu tiên Câu lạc bộ Rotary doanh nghiệp cho phụ nữ trẻ doanh nhân và Tầm nhìn mới trong năm 1995,[7] giải thưởng Hội Namagunga Old Girls' vào năm 1998, và một Uganda Đầu tư Authority [8] giấy chứng nhận bàng nhận cho đấu tranh cho giáo dục thay đổi ở Uganda năm 2001.[9]

Vào năm 2014, bà là một trong số 20 người nhận Huân chương Vàng Jubilee của Uganda [10][11] vì "đóng góp trong lĩnh vực giáo dục cho các trường Taibah" và tinh thần kinh doanh.[11]

Năm 2015, bà là một trong những người chiến thắng và vô địch giải thưởng thế giới năm 2015 [12]

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Mariam Luyombo kết hôn với Hajji Abbas Luyombo, chủ sở hữu của Tập đoàn Taibah.[13] bà có ba đứa con. Bà di cư đến Canada năm 2006 [14] và hiện đang sống ở Ontario, Canada, nơi bà sở hữu một doanh nghiệp.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Kasyate, Simon. “Mulyagonja's long journey from Jinja to judge to IGG”. The Observer - Uganda (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ “Balance life, managers told”. www.newvision.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  3. ^ a b “Profile: Mariam Luyombo”. Aspen Institute. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  4. ^ “Fellows: Mariam Luyombo”. Africa Leadership initiative. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  5. ^ a b “Some of Ugandas richest women”. www.newvision.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  6. ^ “Uganda Muslim Press”. tháng 2 năm 2015.
  7. ^ “hipipo music awards”.
  8. ^ “Mariam Luyombo – ALI East Africa Foundation” (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2019.
  9. ^ “Fellows: Mariam Luyombo”. Africa Leadership Initiative. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  10. ^ Kaweesa, Dalton. “ICC Is Instrument Of Post-colonial Hegemony - Museveni”. Uganda Radio Network (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  11. ^ a b “Lazy workforce derails growth, says Museveni”. www.newvision.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  12. ^ “World of Difference Award Winners and Champions”. TIAW (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  13. ^ Ayuro, Martha (ngày 24 tháng 3 năm 2004). “Uganda: Taibah Tourney Set”. allafrica.com. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
  14. ^ “Sucess [sic] Stories”. caabwa.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.