Onychomys

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Onychomys
Thời điểm hóa thạch: Pliocene sớm - Nay
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Rodentia
Họ (familia)Cricetidae
Chi (genus)Onychomys
Baird, 1858[1]
Loài điển hình
Hypudaeus leucogaster Wied-Neuwied, 1841.
species

Onychomys là một chi động vật có vú trong họ Cricetidae, bộ Gặm nhấm. Chi này được Baird miêu tả năm 1857.[1] Loài điển hình của chi này là Hypudaeus leucogaster Wied-Neuwied, 1841.

Các loài[sửa | sửa mã nguồn]

Chi này gồm các loài:

Sinh học[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng là loài gặm nhấm ăn thịt, chúng ăn thịt côn trùng (chẳng hạn như châu chấu, sâu bọ, nhện, rết, bọ cạp, rắn và thậm chí các loài chuột khác. Chúng cũng rình rập con mồi theo cách của một mèo, lặng lẽ lẻn đến và bảo vệ lãnh thổ của mình bằng cách "hú" như một con sói nhỏ. Các loài chuột này có khả năng miễn nhiễm với nhiều loại nọc độc do con mồi phóng ra (bọ cạp, rắn, v.v.).[2] Chúng là loài sống về đêm và tránh tiếp xúc với ánh sáng chói.[3]

Các lài chuột này săn mồi động vật chân đốt có nọc độc cao. Một ví dụ là rết thường giết chuột bằng cách tiêm chất độc chết chóc qua các càng có nọc độc của chúng. Chuột di chuyển nhanh nhẹn, trong khi rết chỉ có thể tiêm độc tố nếu con mồi bị móng vuốt sắc như kim của con rết giữ chặt. Con chuột vẫn ở ngoài tầm với của con rết và tấn công nó bằng cách cắn liên tục vào bộ xương ngoài cứng của con rết. Mỗi lần tấn công con rết đều làm tổn thương hệ thống thần kinh trung ương của nó, cho đến khi con rết bị tê liệt và chuột châu chấu có thể ăn thịt chúng một cách an toàn.

Một ví dụ khác về động vật chân đốt có nọc độc là lòa bọ cạp vỏ cây centruroides carveduratus. Chuột sống sót trên sa mạc phía tây nam Hoa Kỳ bằng cách ăn bọ cạp vỏ cây, chúng rất dồi dào, do các nguồn tài nguyên khác ít phổ biến hơn.[4] Bản chất hung dữ của chúng vượt ra ngoài thói quen săn mồi: khi bị nhốt chung với những con chuột khác, chúng sẽ thường giết và ăn thịt những con chuột khác đó. Tuy nhiên, chúng có một nhược điểm khi bắt ở những khu vực thoáng đãng vì chân ngắn và thân hình rộng (làm giảm tốc độ của chúng). May mắn thay, do khả năng cơ động tốt, chúng có thể di chuyển nhanh chóng trong các khu vực hẹp cho phép chúng bắt con mồi hiệu quả hơn.[3]

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Wilson, D. E.; Reeder, D. M. biên tập (2005). “Onychomys”. Mammal Species of the World . Baltimore: Nhà in Đại học Johns Hopkins, 2 tập (2.142 trang). ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  2. ^ Onychomys: Tiny Terror of the Western Deserts
  3. ^ a b Bailey, Vernon; Sperry, Charles (tháng 11 năm 1929). “Life History And Habits Of Grasshopper Mice, Genus Onychomys”. google scholar. United States Department of Agriculture.
  4. ^ Thompson, Benjamin (tháng 6 năm 2018). “The Grasshopper Mouse and Bark Scorpion: Evolutionary Biology Meets Pain Modulation and Selective Receptor Inactivation”. The Journal of Undergraduate Neuroscience Education. 16 (2): R51–R53. PMC 6057761. PMID 30057511.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dữ liệu liên quan tới Onychomys tại Wikispecies
  • Tư liệu liên quan tới Onychomys tại Wikimedia Commons