Bước tới nội dung

Reinwardtoena reinwardti

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Reinwardtoena reinwardtii)

Reinwardtoena reinwardti
hình ảnh chim bồ câu đầu trắng, thân nâu, cánh ngoài màu đen
R. r. reinwardti
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Aves
Bộ: Columbiformes
Họ: Columbidae
Chi: Reinwardtoena
Loài:
R. reinwardti
Danh pháp hai phần
Reinwardtoena reinwardti
(Temminck, 1824)
Bản đồ New Guinea với phần tô màu xanh lục hiển thị phạm vi phân bố của Reinwardtoena reinwardti
     Phạm vi phân bố quanh năm
Các đồng nghĩa[2][3][4]
Danh sách

Reinwardtoena reinwardtidanh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Bồ câu (Columbidae) do nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck lần đầu mô tả vào năm 1824. Đây là loài sinh sống chủ yếu ở vùng rừng nguyên sinh, bìa rừng tại New Guinea, các hòn đảo lân cận và Wallacea. Reinwardtoena reinwardti có ngoại hình lớn và dễ phân biệt, với chiều dài rơi vào khoảng 47,5–52,5 cm và cân nặng đạt khoảng 208–305 g. Ở giai đoạn trưởng thành, chim có đầu, cổ và ngực màu trắng hoặc màu lam xám, cùng bộ cánh rìa ngoài màu đen. Phần thân dưới của chim có màu xám xanh nhạt, còn phần trên thì màu nâu hạt dẻ. Chim mái khác chim trống ở đặc điểm là mống mắt vàng hơn và mép viền mắt tối hơn. Chim non có bộ lông màu nâu xám đậm, với phần cổ và phần bụng màu trắng đục.

Khẩu phần của Reinwardtoena reinwardti là các loại hạt và hoa quả. Bình thường chim sống đơn độc hoặc theo từng cặp, nhưng cũng có lúc sống thành đàn với các loài chim ăn trái khác trên cây ăn quả. Reinwardtoena reinwardtitập tính kiếm ăn hiếm có ở loài chim là bảo vệ bụi cây hoa quả của chúng khi có loài khác đến tranh giành. Chim sinh sản quanh năm và thay đổi theo từng khu vực trong phạm vi phân bố, với mỗi lần đẻ là chỉ cho một quả trứng duy nhất. Giai đoạn sinh sản mạnh nhất của loài rơi vào tháng 10 đến tháng 12 tại New Guinea. Reinwardtoena reinwardti dùng cành cây, rêu, rễ cây và dương xỉ để xây dựng tổ, với hình dáng phẳng hoặc hơi lõm. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế phân loại loài này vào nhóm loài ít quan tâm do phạm vi phân bố đủ lớn và số lượng loài ổn định.

Phân loài và hệ thống

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình minh họa của Reinwardtoena reinwardti
Hình minh họa của Pauline Rifer de Courcelles vào khoảng năm 1845

Nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck lần đầu mô tả Reinwardtoena reinwardti vào năm 1824 nhưng với tên gọi là Columba reinwardtsi dựa trên một loài chim đến từ đảo Ambon, Indonesia (lúc đầu ông tuyên bố nhầm là đến từ Sulawesi).[5] Cách viết reinwardtsi là bị in nhầm từ reinwardtii, và ngay cả chính Temminck cũng sử dụng reinwardtii để giới thiệu trong bảng mục lục.[6] Một số tác giả đã cập nhật chỉnh sửa lại tên thành reinwardti và cho đến ngày nay, cả hai cách viết reinwardti hoặc reinwardtii đều được sử dụng.[5]

Vào năm 1854, nhà điểu học người Pháp Charles Lucien Bonaparte giới thiệu chi Reinwardtoena cho loài này, hay còn được gọi là Reinwardtoena typica.[7] Cả hai cách đặt tên chung và tên cụ thể này là nhằm vinh danh nhà nghiên cứu tự nhiên người Hà Lan Caspar Reinwardt.[8] Trong tiếng Anh, Liên đoàn các nhà điểu học quốc tế (IOU) chính thức lấy "great cuckoo-dove" làm tên thông thường cho Reinwardtoena reinwardti.[9] Ngoài ra, loài chim này còn được gọi bằng tên tiếng Anh thông thường phổ biến khác như long-tailed cuckoo-dove, Reinwardt's cuckoo-dove, giant cuckoo-dove, Reinwardt's long-tailed pigeon, chestnut-and-grey pigeon và maroon-and-grey pigeon.[10] Ở ngôn ngữ Sansundi tại đảo Biak, Reinwardtoena reinwardti còn được gọi là Man Wupu.[11]

Reinwardtoena reinwardti là một trong ba loài thuộc chi Reinwardtoena trong họ Bồ câu, Columbidae.[9] Vì ngoại hình của loài này rất giống với Reinwardtoena browni nên cả hai thường được cho là allospecies, tức có nghĩa là hai loài sinh sống khác nhau về mặt địa lý được coi là một phần của cùng phức hợp loài.[10] Hiện nay, IOU công nhận ba phân loài của Reinwardtoena reinwardti.[9] Một số tác giả cũng công nhận các quần thể đến từ BuruObi lần lượt là hai phân loài riêng biệt gồm albidaobiensis.[10] Bên dưới là các phân loài được IOU công nhận:[9]

  • R. r. reinwardti (Temminck, 1824): Phân loài chỉ định được tìm thấy ở Morotai, Halmahera, Kayoa, Bacan, Obi, Buru, Ambon, SeramSeram Laut tại quần đảo Maluku.[5]
  • R. r. griseotincta Hartert, EJO, 1896: Tìm thấy ở New Guinea và các hòn đảo lân cận trừ BiakLouisiade Archipelago.[9] Phân loài này có ngoại hình lớn và bộ lông tối hơn loài chỉ định. Phần trán, mặt và cổ của phân loài sở hữu màu trắng.[10]
  • R. r. brevis Peters, JL, 1937: Tìm thấy ở Biak và Supiori. Phân loài này có ngoại hình bé hơn, bộ lông nhạt màu hơn các phân loài khác và có thể đại diện cho một loài riêng biệt.[10][12]
Ảnh của một cá thể thuộc phân loài griseotincta
R. r. griseotincta

Reinwardtoena reinwardti là bồ câu có ngoại hình lớn và phần đuôi dài. Chim có chiều dài rơi vào khoảng 47,5–52,5 cm (18,7–20,7 in) và nặng khoảng 208–305 g (7,3–10,8 oz).[5][10] Bộ mào nhỏ ở phía sau đầu tạo cho loài này vẻ ngoài "đầu to".[12] Reinwardtoena reinwardti có đầu, cổ và ngực màu xanh xám hoặc trắng kem với một chút màu xám xanh nhạt, ngả sang màu xám tím ở phía sau cổ và lưng trên. Họng và bụng chim có màu trắng, nhưng thi thoảng bụng chim lại mang màu hồng. Phần áo, lưng, mông và lông đuôi trên của Reinwardtoena reinwardti có màu nâu hạt dẻ. Cánh chim thì có màu hạt dẻ sẫm hơn và dần dần trở thành đen khi đi từ phần thân cho đến phía cuối bộ cánh. Phần thân dưới của chim có màu xám xanh nhạt.[5][10]

Lông đuôi ngoài cùng của Reinwardtoena reinwardti có màu trắng xám với phần gốc màu đen và sọc đen gần cuối, trong khi lớp lông đuôi ngoài cùng thứ hai của chim thì có màu tương tự nhưng là các đường sọc đen hạt dẻ. Màu sắc hạt dẻ trở nên đậm dần khi di chuyển đến phần lông đuôi giữa (phần này gần như hoàn toàn là màu hạt dẻ, chỉ có một số điểm nhỏ là màu đen và xám ở gần gốc). Các cá thể của phân loài có sự thay đổi về ngoại hình theo độ dốc trên toàn bộ phân bố địa lý của chúng. Trong phạm vi, các loài phân bố phía Bắc có màu sẫm nhất, còn những loài sống ở phía Tây Nam thì nhạt nhất. Ở chim trống, mống mắt có màu trắng vàng với vòng ngoài màu đỏ và da hốc mắt có màu đỏ. Chim mái thì có mống mắt vàng hơn và da hốc mắt xỉn màu hơn. Ở cả hai giới tính, phần gốc và phần giữa mỏ có màu đỏ chuyển dần sang hồng tím. Phần còn lại của mỏ ở cả hai giới thì có màu nâu vàng, đôi khi có đầu mỏ màu trắng. Bàn chân có màu hồng chuyển dần sang đỏ tím.[5][10]

Chim Reinwardtoena reinwardti gần trưởng thành với bộ lông lốm đốm màu nâu và trắng.
Chim R. r. griseotincta ở giai đoạn cận trưởng thành tại đảo Waigeo

Chim non Reinwardtoena reinwardti mới nở có màu trắng hồng. Lớn lên, chim có mỏ và chân màu đen. Reinwardtoena reinwardti ở tuổi gần trưởng thành có bộ lông màu nâu xám xỉn, với cổ họng và bụng màu trắng đục. Phần cánh sẫm màu hơn phần còn lại của cơ thể. Lông cánh, mông và lông đuôi trên có màu nâu đỏ với các cạnh sẫm. Lông đuôi giữa có màu nâu đen với một chút hung đỏ.[5][10]

Người ta có thể dễ dàng nhận biết được Reinwardtoena reinwardti nhờ vào ngoại hình của chim đặc biệt và có kích thước lớn, với phần dưới nhạt màu tương phản mạnh với phần trên có màu sắc rực rỡ. Tuy nhiên, loài chim này thường bị nhầm lẫn với một phức hợp loài gồm Macropygia amboinensisMacropygia doreya.[10][13] Hai loài này thì có thể phân biệt với Reinwardtoena reinwardti nhờ vào ngoại hình nhỏ và phần thân dưới có màu rượu vang, nhiều vạch kẻ hơn, ít tương phản với phần thân trên hơn.[10]

Tiếng hót

[sửa | sửa mã nguồn]

Reinwardtoena reinwardti có hai kiểu hót dễ phân biệt. Kiểu hót đầu tiên là tiếng "cúc-cu-quốc cúc-cu-quốc cúc-cu-quốc" lặp lại giống Macropygia phasianella, nhưng chậm hơn và nhiều lần phát ra ba âm tiết hơn.[10][12] Kiểu hót thứ hai là một loạt khoảng 12 tiếng "hu" trở nên sâu lắng hơn và nhanh hơn về cuối,[10] được ví như là "tiếng cười mất trí".[12]

Phân bố và nơi sinh sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Reinwardtoena reinwardti có nguồn gốc từ PapuasiaWallacea. Ở quần đảo Maluku của Indonesia, loài này được tìm thấy ở Buru, Ambon, Seram, Obi, Bacan, Kasiruta, Kayoa, Halmahera và Morotai. Ở New Guinea, loài này xuất hiện ở hầu hết đất liền, ngoại trừ vùng đất thấp Trans-Fly, cũng như các đảo vệ tinh Waigeo, Salawati, Misool, Yapen, Biak, Kumamba, Kairiru, Manam, Karkar, GoodenoughFergusson. Reinwardtoena reinwardti chủ yếu sinh sống ở rừng nguyên sinhbìa rừng. Ở Biak, loài này cũng được tìm thấy rừng khai thác, rừng thứ sinhrừng phòng hộ. Reinwardtoena reinwardti được tìm thấy ở độ cao lên tới 3.380 m (11.090 ft) trên đất liền New Guinea và lên tới 1.190 m (3.900 ft) trên đảo Karkar. Trên quần đảo Maluku, Reinwardtoena reinwardti sống ở độ cao từ 115–1.400 m (380–4.600 ft), nhưng phổ biến nhất là ở độ cao trên 800 m (2.600 ft).[5][10]

Hành vi và sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]
Reinwardtoena reinwardti trưởng thành đậu trên cành cây
Reinwardtoena reinwardti thường được tìm thấy trên tán cây.[5][10]

Bình thường, Reinwardtoena reinwardti sống đơn độc hoặc theo từng cặp ở tầng giữa hoặc tán rừng, nhưng cũng có lúc sống thành đàn lên đến 10 cá thể trên cây ăn quả, hoặc gia nhập thành đàn với các loài chim ăn trái khác.[5][10] Mặc dù sở hữu nhịp cánh chậm, mạnh mẽ và uyển chuyển nhưng Reinwardtoena reinwardti thường bay rất nhanh dưới tán cây.[5][12]

Kiếm ăn

[sửa | sửa mã nguồn]

Khẩu phần ăn của Reinwardtoena reinwardti là các loại trái cây và hạt nhỏ. Chim ưa chuộng các loài thực vật thuộc họ Cuồng và đặc biệt hơn là thuộc chi Chân chim, chẳng hạn như Heptapleurum chaetorrhachis. Reinwardtoena reinwardti thường kiếm ăn trên tán cây hoặc đôi khi là ở mặt đất.[5][12] Người ta đã quan sát thấy loài chim này có tập tính bảo vệ các cây bụi có quả mà nó đang ăn bằng cách hù dọa những loài chim khác có ý định ăn cây bụi đó như chim thiên đường, Ailuroedus, chim ăn mậtMelanocharis. Reinwardtoena reinwardti tấn công các loài chim khác bằng cách vừa "vỗ" cánh thật lớn tiếng vừa bay lên đáp xuống con chim xâm nhập. Tuy nhiên, bảo vệ nguồn thức ăn trái cây là một hành vi kiếm ăn không thường xuyên diễn ra. Chim chỉ thực hiện hành vi này ở một số điều kiện nhất định như kích thước cây trồng cũng như tỷ lệ loài chim khác xuất hiện ở mức vừa phải.[4] Người ta cũng quan sát thấy loài này ăn đất[14] và một số cá thể được các nhà nghiên cứu phát hiện có sỏi trong dạ dày.[5]

Sinh sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Reinwardtoena reinwardti có tập tính tán tỉnh bằng cách bay lượn gợn sóng. Chim bay lên cao đột ngột, dang rộng cánh và đuôi hoặc vỗ cánh vào nhau ở vị trí bay cao nhất, rồi hạ xuống đột ngột. Một bài nghiên cứu khác cho biết chim thực hiện màn tán tỉnh bằng cách bay lên theo đường chéo từ một chỗ đậu, đi theo một vòng tròn rộng rồi quay trở lại vị trí cũ, tương tự như Macropygia. Người ta đã quan sát thấy Reinwardtoena reinwardti sinh sản quanh năm và mùa sinh sản thay đổi ở các vùng khác nhau trong phạm vi phân bố.[10] Ở Buru, các nhà khoa học nhìn thấy chim non xuất hiện vào tháng 2. Ở New Guinea, việc sinh sản dường như diễn ra quanh năm. Tổ hoặc chim non được quan sát thấy từ tháng 3 đến tháng 8 và nhiều nhất là từ tháng 10 đến tháng 12. Tổ của Reinwardtoena reinwardti là những bệ phẳng hoặc hơi lõm được làm bằng que, rêu, rễ và dương xỉ. Phía dưới được lót bằng vật liệu thực vật mịn, và tổ thường được đặt ở trên cây hoặc bụi cây ở độ cao 1,2–5 m (4–20 ft). Một số bài nghiên cứu phát hiện tổ của Reinwardtoena reinwardti đặt cao đến 12 m (39 ft) trên cây Dứa dại. Đôi khi tổ được làm trên các mỏm đá trong hang động hoặc hẻm núi sông ở độ cao 2,4–12 m (7,9–39 ft).[5][15]

Reinwardtoena reinwardti chỉ đẻ một quả trứng màu trắng duy nhất với kích thước 37,1 mm–40,0 mm × 25,0 mm–26,8 mm (1,46 in–1,57 in × 0,98 in–1,06 in). Trong môi trường nuôi nhốt, chim sẽ đẻ nhiều lứa nếu lứa đầu tiên không nở. Cả chim bố và mẹ đều có thể ấp trứng. Theo quan sát, trứng Reinwardtoena reinwardti nở sau 16 ngày ở điều kiện nuôi nhốt và sau 22 ngày trong tổ hoang dã. Sau khi trứng nở, chim non được ấp 13 ngày, rời tổ sau 25 ngày và bắt đầu tự kiếm ăn sau 35 ngày.[5][15]

Kẻ săn mồi và ký sinh trùng

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số ký sinh trùng của Reinwardtoena reinwardti được biết đến gồm có Columbicola taschenbergi[16]Coloceras museihalense.[17] Đại bàng Hieraaetus weiskei có thể là kẻ săn mồi.[18]

Bảo tồn

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp Reinwardtoena reinwardti vào nhóm loài ít quan tâm do phạm vi phân bố đủ lớn và quần thể ổn định. Quy mô quần thể của loài này chưa được ước tính. Mặc dù người ta cho rằng Reinwardtoena reinwardti thường không phổ biến trong phạm vi phân bố nhưng chúng có thể phổ biến cục bộ ở các vùng đồi núi.[1] Loài này khá phổ biến ở Papua New Guinea, với mật độ 4–6 con chim trên một kilômét vuông ở Khu quản lý động vật hoang dã Crater Mountain. Tuy nhiên, chúng có thể không phổ biến ở phía Đông Bắc của đất nước. Ở Seram, loài này hiếm gặp ở vùng đất thấp, nhưng phổ biến ở độ cao lớn hơn.[5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b BirdLife International (2016). Reinwardtoena reinwardti. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa (bằng tiếng Anh). 2016: e.T22690589A93278732. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T22690589A93278732.en. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2024.
  2. ^ Salvadori, Tommaso (1893). Catalogue of the Columbae, or pigeons, in the Collection of the British Museum [Danh mục các loài chim bồ câu Columbae trong Bộ sưu tập của Bảo tàng Anh] (bằng tiếng Anh). 21. London: British Museum of Natural History. tr. 367–368. doi:10.5962/bhl.title.8233. OCLC 988725359.
  3. ^ Cottrell, G. William; Greenway, James C.; Mayr, Ernst; Paynter, Raymond A.; Peters, James Lee; Traylor, Melvin A.; University, Harvard (1937). Check-list of birds of the world [Danh sách các loài chim trên thế giới.] (bằng tiếng Anh). 3. Cambridge: Harvard University Press. tr. 36. doi:10.5962/bhl.title.14581. LCCN 31029973. OCLC 12228458 – qua Biodiversity Heritage Library.
  4. ^ a b Pratt, Thane K. (1984). “Examples of Tropical Frugivores Defending Fruit-Bearing Plants” [Ví dụ về các loài ăn quả nhiệt đới có tập tính bảo vệ cây ăn quả]. The Condor (bằng tiếng Anh). 86 (2): 126–128. doi:10.2307/1367024. JSTOR 1367024.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Baptista, Luis F.; Trail, Pepper W.; Horblit, H.M.; Kirwan, Guy M. (ngày 4 tháng 3 năm 2020). Billerman, Shawn M.; Keeney, Brooke K.; Rodewald, Paul G.; Schulenberg, Thomas S. (biên tập). “Great Cuckoo-Dove (Reinwardtoena reinwardti)”. Birds of the World (bằng tiếng Anh). Cornell Lab of Ornithology. doi:10.2173/bow.grcdov2.01. S2CID 241437480. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2024.
  6. ^ Mees, G. F. (1964). “Notes on two small collections of Birds from new Guinea” [Ghi chú về hai bộ sưu tập nhỏ về các loài chim từ New Guinea]. Zoologische Verhandelingen (bằng tiếng Anh). 66 (1): 8–9.
  7. ^ Bonaparte, Charles Lucien (1855). Coup d'oeil sur l'ordre des pigeons [Cái nhìn về bộ Bồ câu] (bằng tiếng Pháp). Paris: Imprimerie de Mallet-Bachelier. tr. 28. doi:10.5962/bhl.title.132086 – qua Biodiversity Heritage Library.
  8. ^ Jobling, James A. (2010). Helm Dictionary of Scientific Bird Names [Từ điển Helm về tên khoa học của các loài chim] (bằng tiếng Anh). London: Christopher Helm. tr. 332. ISBN 978-1-4081-3326-2.
  9. ^ a b c d e Gill, Frank; Donsker, David; Rasmussen, Pamela biên tập (tháng 7 năm 2023). “Pigeons” [Bồ câu]. IOC World Bird List Version 13.2 (bằng tiếng Anh). International Ornithologists' Union. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2024.
  10. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Gibbs, David; Barnes, Eustace; Cox, John (2001). Pigeons and Doves: A Guide to the Pigeons and Doves of the World [Bồ câu: Hướng dẫn về chim bồ câu trên thế giới] (bằng tiếng Anh). London: Pica Press. tr. 278–279. ISBN 978-1-8734-0360-0. OCLC 701718514.
  11. ^ Bishop, K. David; van Balen, Sebastianus (Bas) (ngày 6 tháng 3 năm 2023). “The avifauna of Biak Island, Papua, Indonesia with comments on status, conservation, natural history and taxonomy” [Hệ chim của đảo Biak, Papua, Indonesia với những lời phát biểu về tình trạng, bảo tồn, lịch sử tự nhiên và phân loại học]. Bulletin of the British Ornithologists' Club (bằng tiếng Anh). 143 (1): 17. doi:10.25226/bboc.v143i1.2023.a2. ISSN 0007-1595.
  12. ^ a b c d e f Pratt, Thane K.; Beehler, Bruce M. (2015). Birds of New Guinea [Các loài chim ở New Guinea] (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 2). Princeton, New Jersey: Princeton University Press. tr. 334. ISBN 978-0-691-09562-2.
  13. ^ Gill, Frank; Donsker, David; Rasmussen, Pamela biên tập (tháng 7 năm 2023). “Species Updates” [Cập nhật loài]. IOC World Bird List Version 13.2 (bằng tiếng Anh). International Ornithologists' Union. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2024.
  14. ^ Symes, C. T.; Hughes, J. C.; Mack, A. L.; Marsden, S. J. (2006). “Geophagy in birds of Crater Mountain Wildlife Management Area, Papua New Guinea” [Ăn đất ở các loài chim của Khu bảo tồn động vật hoang dã Crater Mountain, Papua New Guinea]. Journal of Zoology (bằng tiếng Anh). 268 (1): 90. doi:10.1111/j.1469-7998.2005.00002.x. ISSN 0952-8369.
  15. ^ a b Marcuk, V.; de Boer, D. (2021). “First description of the egg of the enigmatic pied cuckoo-dove, with a literature review on the breeding biology of the congeneric crested and great cuckoo-dove” [Mô tả đầu tiên về trứng của loài Reinwardtoena browni bí ẩn, cùng với bài tổng quan tài liệu về sinh học sinh sản của Reinwardtoena crassirostrisReinwardtoena reinwardti cùng loài]. Notornis (bằng tiếng Anh). 68 (1): 90.
  16. ^ Bush, Sarah E.; Price, Roger D.; Clayton, Dale H. (2009). “Descriptions of Eight New Species of Feather Lice in the Genus Columbicola (Phthiraptera: Philopteridae), with a Comprehensive World Checklist” [Mô tả về tám loài rận lông mới trong chi Columbicola (Phthiraptera: Philopteridae), với danh sách kiểm tra toàn diện trên thế giới]. Journal of Parasitology (bằng tiếng Anh). 95 (2): 286–294. doi:10.1645/GE-1799.1. ISSN 0022-3395. PMID 18855488. S2CID 6317945.
  17. ^ Johnson, Kevin P.; Weckstein, Jason D.; Meyer, Mathys J.; Clayton, Dale H. (2011). “There and back again: switching between host orders by avian body lice (Ischnocera: Goniodidae): Major host-switches by parasites” [Đến đó và trở lại một lần nữa: chuyển đổi giữa các bộ vật chủ bằng rận thân chim (Ischnocera: Goniodidae): Chuyển đổi vật chủ chính bằng ký sinh trùng]. Biological Journal of the Linnean Society (bằng tiếng Anh). 102 (3): 616. doi:10.1111/j.1095-8312.2010.01612.x. S2CID 41696201.
  18. ^ Bishop, David; Diamond, Jared; Hornbuckle, Jonathan; Debus, Stephen (2016). “New breeding, distribution and prey records for the Pygmy Eagle Hieraeetus weiskei [Ghi chép mới về sinh sản, phân bố và con mồi của Hieraeetus weiskei]. Australian Field Ornithology (bằng tiếng Anh). 33: 224–226. doi:10.20938/afo33224226. ISSN 1448-0107. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2024.