Sanda Dewi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sanda Dewi
စန္ဒာဒေဝီ
Chính cung Hoàng hậu Prome
Tại vịTháng 12, 1532 – Tháng 2, 1539
Tiền nhiệmShwe Zin Gon
Kế nhiệmbản thân (với tư cách Hoàng hậu Prome của Vua Minkhaung)
Chính cung Hoàng hậu Prome
Tại vịTháng 2, 1539 – 19 tháng 5, 1542
Tiền nhiệmbản thân (tư cách Hoàng hậu Prome của Vua Narapati)
Kế nhiệmSalin Mibaya (với tư cách Phó vương hậu xứ Prome)
Bắc cung Hoàng hậu nhà Taungoo
Tại vịTháng 4, 1553 – 15 tháng 7, 1568
Chính cung Hoàng hậu nhà Taungoo
Tại vị15 tháng 7, 1568 – 10 tháng 10, 1581
Tiền nhiệmAtula Thiri Maha Yaza Dewi
Kế nhiệmHanthawaddy Mibaya
Thông tin chung
Sinh1517/18[note 1]
Mất1580s?
Phối ngẫuNarapati của Prome Vua hoặc hoàng đế
(?—1539 [chồng mất])
Minkhaung của Prome Vua hoặc hoàng đế
([tái hôn] 1539—1553 [chồng mất])
Bayinnaung Vua hoặc hoàng đế
(kết hôn 1539)
Hậu duệVới Narapati:
không có
Với Minkhaung:
một người con trai không rõ tên
Với Bayinnaung:
Min Khin Saw
Tên đầy đủ
Sanda Dewi
Tên thật: Thiri Hpone Htut
Hoàng tộcAva
Thân phụNarapati II của Ava Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuDhamma Dewi của Ava
Tôn giáoPhật giáo Nguyên thủy

Sanda Dewi (tiếng Miến Điện: စန္ဒာဒေဝီ Phát âm tiếng Miến Điện: [sàɴdà dèwì]) là một trong số ba hoàng hậu của Vua Bayinnaung từ 1553 cho đến 1581. Bà cũng là một hoàng hậu lưỡng triều của hai vị vua vua cuối cùng của Prome từ 1532 cho đến 1542. Bà là bà ngoại của Natshinnaung, vua của Taungoo.

Tóm lược[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh thời là Công chúa Thiri Hpone Htut (သီရိဘုန်းထွဋ်သီရိဘုန်းထွဋ် Phát âm tiếng Miến Điện: [θìɹḭ pʰóʊɴ tʰʊʔ]), con gái của Vua Shwenankyawshin xứ Ava và hoàng hậu Dhamma Dewi năm 1517 (18[?]). Sau khi cha bà bị giết ngày 25 tháng 3, 1527, bà đã được đứa đến Prome (Pyay) bởi vua Thado Minsaw của Prome. Sau này, bà kết hôn với một trong ba người cháu của Thado Minsaw, Vua Narapati của Prome trị vì từ 1532 cho đến 1539. Sau khi Narapati chết, bà tái hôn với em trai của Narapati, Minkhaung, và có một đứa con trai với ông.[1]

Khi Prome thất thủ trước quân đội của nhà Taungoo vào tháng 5, 1542, nhà vua và hoàng hậu của Prome được đưa đến Taungoo. Khoảng tháng 4, 1553, Minkhaung bị xử tử vì bị nghi ngờ âm mưu ám hại Bayinnaung. Thiri Hpone Htut sau đó trở thành vợ lẽ của Bayinnaung, với tước vị Bắc cung Hoàng hậu, hiệu Sanda Dewi.[2][3] Ngày 15 tháng 6, 1568, vị hoàng hậu cả, bà chính cung Atulathiri Maha Yazadewi qua đời, cùng ngày bà được tấn phong vị Chính cung Hoàng hậu thay thế. Hoàng hậu có với Bayinnaung một người công chúa, tên là Khin Saw, sau là mẹ của Natshinnaung, vị vua tương lai của Taungoo.[4]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Chronicles (Maha Yazawin Vol. 2 2006: 111) and (Hmannan Vol. 2 2003: 133) say she was 7 (in eighth year) when she was taken prisoner at Ava/Inwa (on ngày 22 tháng 3 năm 1525 per (Sein Lwin Lay 2006: 105–106)) to Prome/Pyay.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hmannan Vol. 2 2003: 136
  2. ^ Harvey 1925: 342
  3. ^ (Hmannan Vol. 2 2003: 279): circa Kason 915 ME
  4. ^ Hmannan Vol. 3 2003: 68

Thư tịch học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Harvey, G. E. (1925). History of Burma: From the Earliest Times to ngày 10 tháng 3 năm 1824. London: Frank Cass & Co. Ltd.
  • Kala, U (1724). Maha Yazawin (bằng tiếng Miến Điện). 1–3 (ấn bản 4). Yangon: Ya-Pyei Publishing.
  • Royal Historical Commission of Burma (1832). Hmannan Yazawin (bằng tiếng Miến Điện). 1–3 (ấn bản 2003). Yangon: Ministry of Information, Myanmar.
  • Sein Lwin Lay, Kahtika U (1968). Mintaya Shwe Hti and Bayinnaung: Ketumadi Taungoo Yazawin (bằng tiếng Miến Điện) (ấn bản 2). Yangon: Yan Aung Sarpay.