Setkya Min

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pe Khin
မောင်ဖေခင်
Tượng Setkya Min
Thái tử Miến Điện[1]
Thân vương Nyaungyan
Tại vị1819 – 1837
Tharrawaddy Min
Thông tin chung
Sinh(1812-10-27)27 tháng 10 năm 1812
Mingun
Mất15 tháng 4 năm 1838(1838-04-15) (25 tuổi)
Amarapura
Phối ngẫuCông chúa Shwetantin
Hậu duệMe Tin Gyi
Tôn hiệu
Mahāsīhasūra Dhammarāja
Hoàng tộcKonbaung
Thân phụBagyidaw
Thân mẫuHsinbyume
Tôn giáoPhật giáo Theravada

Maha Thiha Thura Dhammaraja (tiếng Miến Điện: မဟာသီဟသူရဓမ္မရာဇာ, tiếng Nam Phạn: Mahāsīhasūra dhammarājā; tên khai sinh Pe Khin; 27 tháng 10 năm 1812 – 15 tháng 4 năm 1838), thường được gọi là Setkya Min (tiếng Miến Điện: စကြာမင်း Chakravarti) hay Thân vương Nyaungyan (tiếng Miến Điện: ညောင်ရမ်းမင်းသား), là một thái tử Miến Điện triều Konbaung,[2] con trai của vua Bagyidaw và hoàng hậu Hsinbyume.[3][4] Ông được tôn thờ như một weizza (pháp sư) cùng với Bo Bo Aung.[5]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Maung Pe Khin (မောင်ဖေခင်) sinh ngày 27 tháng 10 năm 1812 tại Mingun, gần Ava, là con của Thái tử Sagaing (người sau này trở thành vua Bagyidaw) và Hsinbyume. Tương truyền, những việc thần kỳ đã xảy ra khi ông chào đời và cơ thể của ông được cho là mang dấu hiệu của một vị quân vương tương lai. Cụ nội Bodawpaya đã phong cho ông tước hiệu Thatoe Minhla Shwetaung đồng thời là Thân vương Nyaungyan. Mẹ ông qua đời bảy ngày sau khi sinh con.[4] Theo sử sách, ông được thần dân tôn kính và gọi là Setkya Min. Sau thất bại của Miến Điện trong Chiến tranh Anh-Miến lần thứ nhất, dân chúng hy vọng rằng ông sẽ kế vị ngai vàng của cha mình, đánh đuổi người Anh và mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng cho Miến Điện và Phật giáo.

Setkya Min kết hôn với Công chúa Shwetantin, người đã sinh ra một cô con gái tên là Me Tin Gyi. Công chúa Shwetantin là con gái của hoàng tử Hlaing (con trai vua Bodawpaya) và công chúa Danubyu (con gái vua Bodawpaya). Vì vậy, hoàng tử Setkya và công chúa Shwetantin là anh em cùng cha khác mẹ.

Khi Bagyidaw bị em trai Tharrawaddy lật đổ, Setkya Min bị hành quyết vào ngày 15 tháng 4 năm 1838. Ông bị ném xuống sông trong một chiếc bao nhung - một phương thức hành quyết được hoàng gia Miến Điện ưa chuộng.[6]

Thờ phụng[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều người tin rằng Setkya Min không bị dìm chết. Họ nói rằng weizza hùng mạnh Bo Bo Aung đã giải cứu ông, rồi đưa đến một thánh địa ẩn giấu. Tại đây ông học các phương pháp bí truyền và cuối cùng trở thành một weizza.[7] Sử dụng sức mạnh tâm linh của mình, Bo Bo Aung đã đưa Setkya Min lên thiên đường, nơi được cho là các vị vua tương lai sẽ chờ đợi thời cơ trước khi trở về Trái Đất.[8]

Phong trào chống thực dân[sửa | sửa mã nguồn]

Setkya Min là một weizza nổi bật.

Setkya Min gắn liền với phong trào chống thực dân ở Miến Điện. Trong hầu hết thời kỳ thuộc địa, nhân vật Setkya Min đại diện cho cuộc kháng chiến chống thực dân, và một loạt cuộc nổi dậy được lãnh đạo bởi những người tự xưng là nhân vật bí ẩn này. Sau khi người Anh sáp nhập toàn bộ Miến Điện và phế truất vị vua Miến Điện cuối cùng vào năm 1885, những cuộc nổi dậy này chủ yếu tìm cách khôi phục chế độ quân chủ nơi nhà vua đảm nhận vai trò là người quảng bá và ủng hộ quan trọng nhất cho Giáo lý của Đức Phật.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sivaraksa, Sulak (1993). Buddhist Perception for Desirable Societies in the Future: Papers Prepared for the United Nations University (bằng tiếng Anh). Thai Inter-Religious Commission for Development, Sathirakoses-Nagapradipa Foundation.
  2. ^ Tarling, Nicholas; Nicholas, Tarling (1992). The Cambridge History of Southeast Asia: Volume 2, The Nineteenth and Twentieth Centuries (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-35506-3.
  3. ^ a b Crosby, Kate; Pranke, Patrick; Schober, Juliane; Foxeus, Niklas; Tosa, Keiko; Patton, Thomas; Coderey, Celine; Collins, Steven (14 tháng 5 năm 2014). Champions of Buddhism: Weikza Cults in Contemporary Burma (bằng tiếng Anh). NUS Press. ISBN 978-9971-69-780-8.
  4. ^ a b Mendelson, E. Michael (1961). “A Messianic Buddhist Association in Upper Burma”. Bulletin of the School of Oriental and African Studies, University of London. 24 (3): 560–580. doi:10.1017/S0041977X00092235. JSTOR 609765. S2CID 161486634.
  5. ^ “ဘိုးတော်ဘုရားအလွန် နှစ် ၂ဝဝ”. BBC News (bằng tiếng Miến Điện). 19 tháng 6 năm 2019.
  6. ^ Pollak, Oliver B. (1979). Empires in Collision: Anglo-Burmese Relations in the Mid-nineteenth Century (bằng tiếng Anh). Greenwood Press. ISBN 978-0-313-20824-9.
  7. ^ Indo-British Review (bằng tiếng Anh). Indo-British Historical Society. 1988.
  8. ^ Ferguson, John P. (1981). Essays on Burma (bằng tiếng Anh). Brill Archive. ISBN 978-90-04-06323-5.