Sierra (lớp tàu ngầm)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một tàu ngầm lớp Sierra II trên đường tuần tra
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Sierra class
Xưởng đóng tàu Krasnoye Sormovo, thiết kế bởi Phòng thiết kế trung ương Lazurit
Bên khai thác
Lớp trước Lớp Alfa, Lớp Victor
Lớp sau Lớp Akula
Thời gian đóng tàu 1979–1992
Thời gian hoạt động 1984–nay
Dự tính 5
Hoàn thành 4
Hủy bỏ 1
Đang hoạt động 4
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân
Trọng tải choán nước
  • Sierra I:
  • 7.200 tấn khi nổi
  • 8.300 tấn khi lặn
  • Sierra II:
  • 7.600 tấn khi nổi
  • 9.100 tấn khi lặn
Chiều dài
  • Sierra I: 107,16 m (351,6 ft)
  • Sierra II: 110 m (360 ft)
Sườn ngang
  • Sierra I: 12,28 m (40,3 ft)
  • Sierra II: 14,2 m (47 ft)
Mớn nước
  • Sierra I: 8,8 m (29 ft)
  • Sierra II: 8,8 m (29 ft)
Động cơ đẩy
  • Sierra I & II: 1 × Lò phản ứng áp lực nước, 190 MW (Thành phần Uranium làm giàu cao (HEU) <= 45%[1])
  • 2 × động cơ khẩn cấp 1.002 hp (747 kW)
  • 1 trục khuỷu, 2 chân vịt
Tốc độ
  • Sierra I & II: 10 hải lý trên giờ (18,5 km/h) (surfaced)
  • Sierra I: 34 hải lý trên giờ (63,0 km/h) (submerged)
  • Sierra II: 32 hải lý trên giờ (59,3 km/h) (submerged)
Tầm xa Tầm hoạt động chỉ bị giới hạn bởi lương thực mang theo cho thuỷ thủ
Thủy thủ đoàn tối đa Sierra I & II: 61 & 72
Vũ khí
  • Sierra I & II:
  • 2 × ống phóng ngư lôi cỡ 650 mm (26 in) (chỉ trang bị trên lớp Sierra I)
  • 4 × ống phóng ngư lôi cỡ 530 mm (21 in) (6 x Sierra II)
  • SS-N-21 Sampson
  • SS-N-15 Starfish; bom chìm 200 kt hoặc ngư lôi Type 40 trang bị đầu nổ 90 kg HE
  • SS-N-16 Stallion, bom chìm 200 kt hoặc ngư lôi Type 40 trang bị đầu nổ 90 kg HE
  • Hoặc được trang bị 42 mìn thay thế cho ngư lôi

Tàu ngầm lớp Sierra, định danh của Liên Xô là Project 945 BarrakudaProject 945A Kondor, (ký hiệu của NATOSierra ISierra II), là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hải quân Liên Xô, và nay đang hoạt động trong thành phần trang bị của Hải quân Nga.

Lớp tàu ngầm Sierra rất đặc biệt do trọng lượng nhẹ và có thân tàu làm từ titanium giúp tàu có khả năng lặn rất sâu, giảm tiếng ồn và giúp tàu ngầm lẩn tránh các đòn tấn công bằng ngư lôi. Tàu ngầm lớp Sierra được trang bị một lò phản ứng áp lực nước OK-650.

Phiên bản nâng cấp là Sierra II được phát triển để tìm kiếm và tiêu diệt các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ. Tốc độ và khả năng lặn sâu của nó lớn hơn các tàu ngầm tấn công hạt nhân của Mỹ vào thời điểm nó ra đời. Đồng thời nó cũng được nâng cao mức độ tàng hình về thuỷ âm.[2]

Các phiên bản[sửa | sửa mã nguồn]

Project 945 Barrakuda (Sierra I)[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm đầu tiên thuộc Project 945, Carp, được đặt keel vào tháng bảy năm 1979[3] tại nhà máy đóng tàu Gorky và được hạ thuỷ vào tháng Tám năm 1983 trước khi được chuyển đến Severodvinsk. Tàu ngầm thứ hai được đóng mang tên Kostroma, khởi đóng tháng Bảy năm 1986 được đưa vào hoạt động tháng Chín năm 1987. K-276 Kostroma được đưa lên ụ cạn sau sự kiện ngày 11 tháng Hai năm 1992 khi nó va chạm với tàu ngầm SSN-689 của Hải quân Mỹ trên biển Barents, ngoài khơi đảo Kildin.[4][5] Tàu ngầm được sửa vào ngày 3 tháng 6 năm 1992 trước khi được đổi tên thành Krab vào ngày 6 tháng 4 năm 1993, nhưng nó lại được giữ lại cái tên cũ của mình là Kostroma vào năm 1996.[6][7] Tàu ngầm lớp Sierra I cũng đồng thời được trang bị các pod thoát hiểm cho thuỷ thủ đoàn.[8] Pod được bảo vệ bởi vỏ hình chữ V bên cạnh thân tàu ngầm.

Project 945A Kondor (Sierra II)[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Project 945A �dài hơn 5 m so với tàu ngầm Sierra I. Cột tàu ngầm có dạng phẳng và vuông cạnh. Cột kính tiềm vọng được thay đổi vị trí để có chỗ cho hai kén thoát hiểm. Mạn phải của tàu ngầm cũng có 10 điểm gắn sensor môi trường. Ngoài ra, Sierra II cũng có pod cỡ lớn bên trên cánh vây đuôi. Pod này chứa sonar thụ động tần số rất thấp Skat 3.

Chỉ có hai tàu ngầm thuộc lớp tàu ngầm Sierra II, tàu Pskov đã trải qua đại tu (2011-2015) theo như nguồn từ trang web Deep Storm của Nga.[9] Cũng theo trang tin này, tàu ngầm Nizhniy Novgorod nằm dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng cấp 1 Alexey Ananko hai năm 2008 và 2013.[10]

Cả tàu ngầm Nizhniy NovgorodPskov đã tham gia tập trận lớn vào tháng 10 năm 2019.[11][12]

Project 945AB (Sierra III)[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếc tàu ngầm duy nhất thuộc Project 945AB khởi đóng vào tháng 3 năm 1990 nhưng sau đó đã bị tháo dỡ vào tháng 11 năm 1993 trước khi hoàn tất.[13]

Kế hoạch hiện đại hoá Barrakuda (Sierra I)[sửa | sửa mã nguồn]

Nga có kế hoạch hiện đại hoá tàu ngầm CarpKostroma thuộc Project 945 vào những năm 2010s, nhưng không bao giờ hoàn thiện. Một hợp đồng hiện đại hoá 2 tàu ngầm được ký kết với nhà máy đóng tàu Zvezdochka Shipyard, Severodvinsk, với dự kiến việc tái trang bị sẽ mất khoảng 3 năm.[14] Ban đầu người ta dự kiến tàu ngầm sẽ được chuyển đến xưởng đóng tàu Zvezdochka trước thời điểm cuối tháng Tư năm 2013 và việc tu sửa sẽ bắt đầu vào mùa hè năm 2013. Theo kế hoạch, xưởng đóng tàu Zvezdochka sẽ đảm nhiệm việc tân trang, sửa chữa các chi tiết cơ khí, và thay mới nhiên liệu hạt nhân cùng với các thiết bị điện của con tàu. Các tàu ngầm cũng dự kiến sẽ được trang bị sonar mới, hệ thống quản lý chiến đấu (combat information management system (BIUS)), hệ thống định vị vệ tinh GLONASS cùng với việc trang bị các tên lửa hành trình Kalibr.[15] Tuy nhiên, vào tháng Ba năm 2015, việc hiện đại hoá hai chiếc tàu ngầm chưa được hoàn tất do vấn đề chi phí.[16][17]

Đơn vị[sửa | sửa mã nguồn]

# �Tên Dự án Khởi đóng Hạ thuỷ Đưa vào trang bị Hạm đội Tình trạng Ghi chú
B-239 Carp 945 ngày 20 tháng 7 năm 1979 ngày 29 tháng 7 năm 1983 ngày 29 tháng 9 năm 1984 Hạm đội Phương Bắc Dự trữ[18]
B-276 Kostroma 945 ngày 21 tháng 4 năm 1984 ngày 26 tháng 7 năm 1986 ngày 27 tháng 11 năm 1987 Hạm đội Phương Bắc �Dự trữ Quá trình sửa chữa bị ngừng vô thời hạn tính đến tháng Bảy năm 2018[cần dẫn nguồn]
B-534 Nizhniy Novgorod 945A ngày 15 tháng 2 năm 1986 ngày 8 tháng 7 năm 1989 ngày 26 tháng 12 năm 1990 Hạm đội Phương Bắc Vẫn hoạt động đến năm 2019[11]
B-336 Pskov 945A ngày 29 tháng 6 năm 1989 ngày 28 tháng 7 năm 1992 ngày 17 tháng 12 năm 1993 Hạm đội Phương Bắc �Hoạt động Sửa chữa xong năm 2015.[9]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Marine Nuclear Power:1939 – 2018” (PDF). tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2022.
  2. ^ Polmar, Norman; Moore, Kenneth J. (2004). Cold War Submarines: The Design and Construction of U.S. and Soviet Submarines. Washington, DC: Brassey's. tr. 283. ISBN 978-1-57488-594-1. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016 – qua Google Books.
  3. ^ “Подводные лодки. Проект 945” [Submarines. Project 945]. Deepstorm.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  4. ^ Shaw, John D. (ngày 3 tháng 8 năm 2006). “Submarine Safety” (PDF). International System Safety Society. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2006.
  5. ^ “Уникальные подводные лодки проекта 945 "Барракуда" с титановым корпусом возвращаются в строй” [Unique submarines of Project 945 "Barracuda" with titanium hull return to service]. Center for Political-Military Studies (bằng tiếng Nga). ngày 5 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  6. ^ “945 Sierra class”. Warfare.be. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2013.
  7. ^ Torbin, Alexander (ngày 29 tháng 12 năm 2015). “В состав Северного флота вернули титановый подводный истребитель” [Titanium attack submarine returns to Northern Fleet]. Civilia.info (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2016.
  8. ^ Galbraith, David. “12 real escape pods”. OObject. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  9. ^ a b “Подводная лодка К-336, Б-336, "Окунь", "Псков". Проект 945А” [Submarine K-336, B-336, Okun, Pskov. Project 945A]. Deepstorm.ru (bằng tiếng Nga).
  10. ^ “Подводная лодка К-534, Б-534, "Зубатка", "Нижний Новгород". Проект 945А” [Submarine K-534, B-534, Zubatka, Nizhny Novgorod. Project 945A]. Deepstorm.ru (bằng tiếng Nga).
  11. ^ a b Sutton, H. I. (ngày 26 tháng 10 năm 2019). “Russian Submarine May Test New Weapons Off Norway This Week”. Forbes.
  12. ^ Rogoway, Tyler (ngày 29 tháng 10 năm 2019). “Russia Sends Ten Subs Into North Atlantic In Drill Unprecedented In Size Since Cold War”. The Drive.
  13. ^ Apalkov, Yu.V (2003). Korabli VMF SSSR [Ships of the Soviet Navy] (bằng tiếng Nga). Sankt-Peterburg: Galeja Print. ISBN 5-8172-0076-7.
  14. ^ Nilsen, Thomas (ngày 5 tháng 3 năm 2013). “Brushes dust off 25-year old sub”. Barents Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2013.
  15. ^ “ВМФ России вернет в строй подводные лодки с титановыми корпусами” [The Russian Navy will return to service submarines with titanium hulls]. Flotprom (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ “Многоцелевая Атомная Подводная Лодка Проекта 945 "Барракуда" [Project 945 Multipurpose Nuclear Submarine "Barracuda"]. БАСТИОН (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2016.
  17. ^ Mardasov, Anton (ngày 3 tháng 3 năm 2015). "Карп" второй свежести: Стоит ли модернизировать титановые субмарины советских годов постройки?” [Carp's second life: Should we upgrade our Soviet-era titanium submarines?]. Svobodnaya Pressa (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  18. ^ “Sierra I Class Nuclear-Powered Attack Submarine”. Military-Today.com.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Sierra class submarine Bản mẫu:Soviet and Russian submarines after 1945 Bản mẫu:Current SSN