Thảo luận:Thập niên 1340

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dự án Năm
Trang này được thực hiện với sự phối hợp của các thành viên thuộc dự án Năm, một dự án hợp tác giữa các thành viên nhằm nâng cao chất lượng các bài viết về Năm. Nếu bạn muốn tham gia, xin hãy đến thăm trang của dự án! Bạn cũng có thể ghé qua trang thảo luận để trao đổi hoặc đề xuất ý kiến.
?Bài viết chưa được đánh giá chất lượng.
?Bài viết chưa được xếp độ quan trọng.

Đại Việt cuối thế kỉ XIV và cuộc cải cách của Hồ Quý Ly

Ngày 18/9/2006. 1. Tình hình xã hội

a- Sự sa đọa của tầng lớp quý tộc cầm quyền:

Những khó khăn do cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông – Nguyên ở nửa sau thế kỉ XIII dần dần được khắc phục. Xã hội Đại Việt trở lại ổn định trong một thời gian. Tầng lớp quý tộc nhân đó chuyển sang hoạt động mở rộng điền trang, thái ấp, tăng thêm số lượng nông nô, nô tì, củng cố địa vị thống trị ở địa phương mình.

Ở Trung ương, đến thời vua Trần Dụ Tông (1341- 1369) những hiện tượng suy thoái ngày càng tăng thêm. Dụ Tông sai đào hồ lớn ở vườn ngự, chất đá làm núi, bốn mặt đào kênh thông với sông lớn để lấy nước vào hồ, làm chỗ vui chơi. Sau đó, Dụ Tông còn sai người đào thêm một hồ khác, bắt dân các huyện ở Hải Đông chở nước mặn về chứa để nuôi các loại hải sản. Bọn quan lại cũng nhân đó thả sức bắt quân dân xây dựng dinh thự, chùa chiền, nuôi con hát chơi bời. Xuất hiện hàng loạt tên nịnh thần và việc triều chính bị chúng lũng đoạn. Tư nghiệp Quốc tử giám là Chu An nhận thấy nguy cơ đó đã dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần (sớ thất trảm) nhưng Dụ Tông không nghe; ông đã xin trả ấn, từ quan. Việc tranh bè kéo cánh trong hàng ngũ quý tộc đã dẫn đến sự vu khống, giết hại lẫn nhau, loạn khiến các nước nhỏ phía nam không còn thần phục như trước nữa. Để lấy lại uy quyền, vua Trần đã nhiều lần đem quân chinh phạt". Những năm 1334 - 1335, thượng hoàng Trần Minh Tông hai lần đem quân đi đánh Ai Lao ở mạn tây Nghệ An, có lúc bị thua to, đốc tướng Đoàn Nhữ Hài bị giết. Từ sau thất bại trong trận tấn công vào Chămpa năm 1318, nhà Trần không còn sức khống chế nước này. Tình hình các vùng đất phía nam, đặc biệt là hai châu Ô, Lý (Thuận Hoá) mới được sáp nhập, luôn luôn mất ổn định vì tăng thêm quân biên phòng ở đây, đưa Trương Hán Siêu vào điều giải, tình hình mới tạm ổn. Những cuộc chiến tranh với Ai Lao, Chăm pa đã buộc nhà Trần phải huy động nhiều của cải, lương thực, binh lính, gây thêm hàng loạt khó khăn cho nhân dân.

Năm 1369, Trần Dụ Tông chết không có con trai nối ngôi. Bà Thái hậu (vợ Trần Minh Tông) đưa Nhật Lễ, con thứ của một đại vương nhà Trần lên làm vua. Nhật Lễ vốn là con của một người phường chèo, họ Dương, nên khi lên làm vua, hàng ngày chỉ vui chơi, hoang dâm, rượu chè, rắp tâm xóa họ Trần thay bằng họ Dương của mình, nên tìm cách giết hại các quý tộc cao cấp của nhà Trần. Thái Hậu bị giết. Tướng quốc Trần Nguyên Trác mưu cùng 18 quý tộc lật đổ Dương Nhật Lễ cũng bị bắt giết hết. Cả triều Trần hoang mang, mãi một năm sau mới cùng nhau hạ được Nhật Lễ, đưa Trần Phủ lên, tức Trần Nghệ Tông. Nhà Trần suy, dòng họ Trần không còn có khả năng khôi phục uy tín ngày xưa của mình nữa.

b. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân, nô tì

Từ đầu thế kỉ XIV, (lo mất mùa đói kém, nông dân đã phải bán vợ, bán con, bán mình làm nô tì cho các quý tộc, địa chủ giàu có. Bọn này nhân đó xâm chiếm hoặc mua rê ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng thêm số người làm. Nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với rất nhiều điền nô.

Cùng với tình trạng đó, các cuộc chiến tranh với Ai Lao, Chămpa lại buộc nông dân nghèo phải bỏ ruộng đồng. Nhà nước không còn sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi. Trong nửa sau thế kỉ XIV đã có 9 lần đê vỡ, lụt lớn. Có những năm vừa hạn, vừa lụt như năm 1348, 1355, 1393 v.v.. Hậu quả tất nhiên của thiên tai và chiến tranh là mất mùa, đói kém. Chỉ tính từ đầu thế kỉ XIV cho đến năm 1379 đã có hơn 10 nạn đói lớn, dân nghèo phải bán cả nhà cửa, con cái, ruộng vườn. Ngân quỹ trống rỗng, nhà nước nhiều lần cho nhà giàu nộp tiền, thóc để nhận quan tước nhưng không giải quyết nổi nạn đói và thiếu thốn. Năm 1378, vua Trần phải chấp thuận đề nghị của quan lại, buộc mỗi dân đinh phải đóng 3 quan tiền thuế đinh hàng năm. Tướng quốc triều Trần là Trần Nguyên Đán mới ngày nào đó còn vui mừng thốt lên,Triệu tính âu ca lạc thịnh thì (nghĩa là Trăm họ mừng ca cảnh thịnh giàu) thì nay đã buồn rầu viết nên mấy câu thơ:

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm

Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm

Tam vạn quyển thư vô dụng xứ

Bạch đầu không phụ ái dân tâm

(nghĩa là Năm nay hè hạn, thu nước to, Mạ thối lúa khô hại biết bao

Đọc sách triệu trang mà bất lực, Bạc đầu xin phụ nỗi thương dân”

Còn thái học sinh Nguyễn Phi Khanh, vốn sống cùng nhân dân, thông cảm với cuộc sống của nhân dân, trong thư gửi cho cha, viết:

Đạo huề thiên lí xích như thiêu

Điền dã hưu ta ý bất liêu

…Lại tư võng cổ hồn đa kiệt

Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu …

(nghĩa là: Ruộng lúa ngàn dặm đỏ như cháy, Đồng quê than vãn trông vào đâu

Lưới chài quan lại còn vơ vét, Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi…)

Năm 1343, đại hạn, mất mùa, dân nghèo nổi dậy khắp nơi. Năm 1344, dưới lá cờ khởi nghĩa của Ngô Bệ, nông dân đã nổi dậy ở vùng núi Yên Phụ (Hải Dương) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. Khởi nghĩa bị đàn áp nhưng 14 năm sau năm 1357 - 1358 nghĩa quân Ngô Bệ lại bùng lên ở Yên Phụ, yết bảng chẩn cứu dân nghèo, chống lại quân triều đình. Nghĩa quân làm chủ cả một vùng rộng lớn thuộc huyện Chí Linh, chiến đấu: cho đến năm 1360 mới bị đàn áp. Cùng thời gian này, nhân nạn đói lớn năm 1354, một người tên là Tề tự xưng là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo, tụ tập các gia nô bỏ trốn, khởi nghĩa và đánh phá cả vùng từ Lạng Giang (Bắc Giang) đến Nam Sách (Hải Dương) Gia nô các nhà vương hầu nhân đó, trốn khỏi điền trang ngày càng nhiều.

Năm 1379, ở Thanh Hóa, Nguyễn Thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng Lương Giang (sông Chu); Nguyễn Kỵ cũng xưng vương hoạt động ở Nông Cống.

Đầu năm 1890, nhà sư Phạm Sư Ôn phất cờ khởi nghĩa ở Quốc Oai (Hà Tây). Nghĩa quân ngày càng đông, lực lượng ngày càng hùng hậu, đã kéo về đánh kinh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông và Trần Thuật Tông phải bỏ chạy sang Bắc Giang và cho gọi tướng Hoàng Phụng Thế đang chỉ huy quân chống cự quân Chămpa ở Hoàng Giang về đánh. Nghĩa quân chiếm kinh thành trong 8 ngày rồi rút lên Quốc Oai, sau đó bị đàn áp.

Năm 1399, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái nổ ra ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc, nhân Trần Thuận Tông bị giết. Mãi đến đầu năm 1400, cuộc khởi nghĩa mới bị dập tắt.

Khởi nghĩa nông dân cuối thời Trần đã nói lên cuộc khủng hoảng suy thoái của triều đại thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế độ ruộng đất và nông nghiệp đương thời. Các cuộc khởi nghĩa không chỉ lôi cuốn nông dân nghèo mà còn cả hàng loạt nông nô, nô tì ở các điền trang của vương hầu, quý tộc.

c. Chiến tranh với Chămpa

Từ đầu những năm 60 thế kỉ XIV, Chămpa hùng mạnh lên thường xuyên đánh phá châu Hóa, cướp người, đòi đất. Nhà Trần nhiều lần đem quân vào chống cự nhưng cũng nhiều lần thất bại. Năm 1371, quân Chămpa theo đường biển vào cửa Đại An (Nghĩa Hưng, Nam Định) rồi tiến thẳng lên kinh thành Thăng Long. Trần Nghệ Tông bỏ chạy. Quân Chămpa cướp phá nhà cửa, kho tàng, đốt cung điện rồi rút về. Năm 1376, nhân quân Chămpa đánh ra Hóa Châu, Trần Nghệ Tông cùng con là Trần Thuận Tông kéo đại quân đánh vào Chămpa. Quân dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu, Hóa Châu được lệnh chuyên chở lương thực đi theo. Vua Chămpa bấy giờ là Chế Bồng Nga đã giả hàng và dụ cho quân Trần vào đến thành Trà Bàn (kinh đô) phục kích đánh tan. Trần Duệ Tông tử trận, Ngự câu vương Húc đầu hàng. Tháng 6 năm sau, nhân đà thắng lợi, Chế Bồng Nga cho quân theo cửa Thần Phù (Nam Định) đánh thẳng vào Thăng Long, cướp phá rồi rút về.

Năm 1378, quân Chămpa đánh ra Nghệ An rồi vượt biển đánh vào Thăng Long. Hai năm sau, chúng lại đánh Nghệ An, nhưng lần này bị quân của Hồ Quý Ly đánh bại. Năm 1382, một lần nữa, quân của Hồ Quý Ly, Nguyễn Đa Phương phải kéo vào Thanh Hóa đánh lui quân Chămpa. Những năm sau đó, quân Chăm pa do Chế Bồng Nga và La Ngai chỉ huy lại theo đường núi kéo ra Quảng Oai, uy hiếp Thăng Long. Tướng Lê Mật Ôn được lệnh đem quân chống cự, nhưng thua trận và bị chết. Trần Nghệ Tông phải rời kinh thành lên Đông Ngàn (Bắc Ninh), để Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ. Đầu năm sau, quân Chămpa lút về Nam.

Tháng 10 năm 1389, quân Chămpa lại đánh ra Thanh Hóa. Quân nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy bị thua trận. Hơn 70 tướng bị giết. Hồ Quý Ly bỏ về, xin quân cứu viện không được, bèn tự giải chức. Nghệ Tông cử tướng Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp vào chống cự. Khát Chân khóc, lạy tạ ra đi. Quân Chămpa kéo ra Thiên Trường. Trần Khát Chân tạm đóng quân lại ở Hải Triều (bắc Hưng Nhân - Thái Bình). Cuộc giáp chiến xảy ra. Nhận biết được thuyền chỉ huy của Chế Bồng Nga, tướng Trần Khát Chân hô quân nã súng lớn vào. Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Trần Khát Chân nhân đó tấn công ồ ạt. Quân Chămpa bại trận, La Ngai rút lui theo đường núi chạy về nước. Từ đó Chăm pa suy dần.

Cuộc chiến tranh với Chămpa vừa nói lên sự suy yếu của nhà Trần vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân đương thời. Cuộc khủng hoảng xã hội thêm trầm trọng.

d. Nguy cơ xâm lược từ phương Bắc

Năm 1368, sau khi lật đổ nhà Nguyên, vua Minh Thái Tổ ổn định dần tình hình nội bộ Trung Quốc rồi bắt đầu sai quân lấn chiếm các nước phương Nam. Sự suy yếu của nhà Trần là điều kiện thuận lợi cho chúng thực hiện mưu đồ bành trướng của mình.

Năm 1384, quân Minh đánh Vân Nam, bắt nhà Trần phải cung cấp lương thực cho chúng. Vua Trần buộc phải cho người vận chuyển 5000 thạch lương lên nộp. Năm 1388, nhà Minh sai sứ sang đòi ta nộp các thứ quả ngon ngọt và mượn đường đi đánh Chămpa bằng cách bắt nhà Trần nộp 50 thớt voi, đặt nhà trạm chứa sẵn lương thảo cho quân của họ. Nhưng đây chỉ là một sự thăm dò.

Năm 1395, nhân việc cử quân xuống Long Châu (Quảng Tây) đàn áp một cuộc nổi dậy của tộc người thiểu số, nhà Minh vờ cho người sang ta xin giúp 50 con voi, 50 vạn hộc lương. Nhà Trần biết được điều đó nên chỉ cấp một ít lương thảo.

Những đòi hỏi nhằm tiến tới thực hiện âm mưu xâm lược của nhà Minh diễn ra liên tục cho đến đầu thế kỉ XV.

Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV đang lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc: chính quyền suy yếu, bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống trị phân tán, sa đọa, kinh tế nông nghiệp sa sút nghiêm trọng đã dẫn đến chỗ nông dân nghèo, gia nô, nô tì nổi dậy chống đối hay chạy trốn.

Trong lúc đó, những cuộc tấn công đánh phá của Chămpa lại liên tục diễn ra, dù cuối cùng bị đẩy lùi hẳn, đã làm cho cuộc sống của nhân dân thêm khổ cực, triều chính thêm rối ren, tài chính kiệt quệ. Đã thế, Đại Việt lại đứng trước nguy cơ một cuộc ngoại xâm ngày càng đến gần. Bên trong khủng hoảng, giặc ngoài đe dọa, đó là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

2. Cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ

a. Cuộc đời hoạt động chính trị của Hồ Quý Ly

Năm 1371, sau khi củng cố được địa vị thống trị của họ Trần, Nghệ Tông bắt đầu phong tước cho những người có công ủng hộ mình và tổ chức lại bộ máy nhà nước. Một người cháu bên ngoại là Lê Quý Ly được đưa lên chức khu mật đại sứ - một chức vụ quan trọng trong triều, trông coi cấm quân.

Lê Quý Ly là cháu 4 đời của Hồ Liêm, dòng dõi Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, làm thái thú Diễn Châu vào đầu thế kỉ X. Hồ Liêm di cư ra Đại Lại- Thanh Hóa rồi xin làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn, từ đó mang họ Lê. Quý Ly có hai người cô đều là vợ Trần Minh Tông và là mẹ của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông, nhờ đó rất được Trần Nghệ Tông tin yêu. Năm 1375, Quý Ly được giữ chức Tham mưu quân sự, năm 1379 thăng Tiểu tư không kiêm khu mật đại sứ và năm 1380, giữ chức nguyên nhung Hải tây đô thống chế. Sau khi tham gia một số cuộc hành quân chống đánh quân Chămpa, tuy công không lớn nhưng đến 1387 thì được Nghệ Tông nâng lên chức Đổng bình chương sự, quyền như tể tướng cùng vua bàn việc nước. Dựa vào chức quyền và sự tin yêu của thượng hoàng Nghệ Tông, Lê Quý Ly tìm cách đưa dần người trong họ và bè phái vào nắm các chức quan trọng trong triều và trong quân đội.

Năm 1388 vua Trần cùng thái úy Trần Ngạc mưu giết Lê Quý Ly, chẳng may việc bại lộ. quý Ly tâu việc đó với Nghệ Tông và dùng áp lực của Nghệ Tông phế vua làm Linh đức vương, đem giam ở chùa Tư Phúc rồi cho người giết chết. Năm 1391, Thái úy Trần Ngạc cùng một số quý tộc Trần bị Quý Ly giết nốt. Sự chuyên quyền của Quý Ly lên đến cao độ khiến Trần Nghệ Tông, bấy giờ đã gần kề cái chết, rất lo lắng, cho gọi Quý Ly vào cung dặn dò: “Nay thế nước suy yếu... sau khi ta chết rồi, quan gia (chỉ vua Trần) đáng giúp thì giúp, nếu là người hèn kém, ngu dốt thì ngươi tự lấy lấy nước” Quý Ly rạp đầu khóc, khước từ.

Năm 1395, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất. Quý Ly được phong Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên trung vệ quốc đại vương. Quyền hành hầu như nằm hết trong tay Quý Ly.

Năm 1397 Quý Ly cho xây kinh đô mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa) rồi sau đó bắt vua dời vào ở đây, làm lễ nhường ngôi cho con (mới ba tuổi) tức Thiếu đế.

Năm 1399, Quý Ly cho người giết Trần Thuận Tông (cha của Thiếu đế). Một số quý tộc, đại thần của nhà Trần bao gồm các tướng Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hãn, Trụ quốc Trần Nhật Đôn, hành khiển Hà Dực Lân v.v..tổ chức cuộc mưu sát Lê Quý Ly, chẳng may việc tiết lộ. Tất cả bọn họ cùng thân thuộc cộng hơn 370 người đều bị giết, tịch thu gia sản, con gái bị bắt làm tì, con trai bị dìm chết hoặc chôn sống. Việc bắt bớ diễn ra suốt mấy năm.

Đầu năm 1400 không chần chừ được nữa, Quý Ly truất ngôi vua Trần, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi sang họ Hồ và đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Nhà Hồ thành lập.

b. Cuộc cải cách của Hồ quý Ly:

Cùng với quá trình đi lên trên con đường chính trị, Hồ Quý Ly từng bước thực hiện những cải cách của mình.

Về chính trị: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu quân sự, Quý Ly đã đề nghị "chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập võ nghệ,thông hiểu thao lược thi không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng. Năm 1397, Quý Ly cho đổi trấn Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, trấn Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, trấn Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, trấn Trường Yên làm trấn Thiên Quan, trấn Lạng Giang làm trấn Lạng Sơn…v.v…và quy định cơ chế làm việc: lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét". Khu vực quanh kinh thành Thăng Long được đổi gọi là Đông đô lộ do phủ đô hộ cai quản. Sau đó, Quý Ly cho dời đô vào An Tôn (Tây đô). Chế độ Thái thượng hoàng tạm bãi bỏ, nhưng đến khi nhà Hồ thành lập, năm 1401 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hán Thương và tự xưng là Thái thượng hoàng.

Năm 1400, sau khi lên ngôi, Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội nhân đi về các lộ thăm hỏi cuộc sống của nhân dân và tình hình quan lại để thăng, giáng. Năm 1402, nhà Hồ xuất quân đánh Chămpa. Vua Chămpa sợ phải đăng nộp hai vùng đất Chiếm Động và Cổ Lũy. Năm 1404, một lần nữa nhà Hồ đánh vào Chămpa nhưng không có kết quả gì, phải rút quân.

Về kinh tế: Năm 1397, theo đề nghị của Quý Ly, vua Trần "xuống chiếu hạn định số ruộng tư. "Đại vương, trưởng công chúa không có hạn định, dưới đến thứ dân không được có quá l0 mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép lấy ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công”.

Để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền, năm 1398, Hồ Quý Ly cho các quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất. Ai có ruộng tư phải kê khai rõ số ruộng và cắm thẻ ghi tên của mình trên mình ruộng. Sau 5 năm sổ sách phải làm xong, ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công.

Về tài chính: Cải cách nổi bật nhất là việc ban hành tiền giấy, thu hồi hết tiền đồng. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho lưu hành tiền giấy gọi là thông bản hội sao”, gồm 7 loại: 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan, đều có hình in khác nhau. Nhà nước cũng quy định, ai làm tiền giả phải tội chết, quan tiền đồng đổi được 1 quan hai tiền giấy; ai còn dùng tiền đồng, bị bắt cũng phải tội như làm giả. Năm 1403, trước phản ứng của nhân dân, nhà Hồ ban điều luật về tội không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng hay đóng cửa hàng. Nhà Hồ cũng đặt chức thị giám, ban mẫu về cân thước, thưng đấu.

Năm 1402, nhà Hồ định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh vào người có ruộng được chia; người không có ruộng, trẻ mồ côi, đàn bà góa không phải nộp. Thuế đánh theo lũy tiến: người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan.

Thuế ruộng tự: 5 thăng/ mẫu.

Đất bãi thu: từ 3 quan đến 5 quan/mẫu.

- Về xã hội: Một chính sách có tầm quan trọng lớn là hạn chế nô tì. Năm 1401, nhà Hồ quy định các quan lại, quý tộc chiếu theo phẩm cấp chỉ được nuôi một số nô tì, nông nô nhất định. Số thừa là sung công. Mỗi gia nô được nhà nước đền bù 5 quan tiền, trừ loại mới nuôi hoặc gia nô người nước ngoài số gia nô còn lại phải ghi dấu hiệu ở trán theo tước phẩm của chủ.

Cùng năm đó, nhà Hồ cho các lộ làm lại sổ hộ, biên hết tên những người từ 2 tuổi trở lên. Những dân phiêu tán đều bị loại ra ngoài sổ; dân kinh thành trú ngụ ở các phiên trấn phải trở về quê quán. Khi sổ làm xong, số dân từ 15 - 60 tuổi tăng lên gấp hai lần.

Năm 1403, sau khi đánh chiếm được vùng đất từ Hóa Châu đến Cổ Lũy (Bắc Quảng Ngãi) nhà Hồ đưa những người có của mà không có ruộng vào, biên làm quân ngũ, ở lại trấn giữ lâu dài. Sau đó kêu gọi nhà giàu nộp trâu để đưa vào đây.

Năm 1405, nạn đói xảy ra. Nhà Hồ đã lệnh cho các quan địa phương đi khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt phải bán cho dân đói theo thời giá.

Nhà Hồ cũng đặt Quảng tế thự để chữa bệnh cho dân.

Về văn hóa - giáo dục: Năm 1392, Hồ Quý Ly soạn sách Minh đạo phê phán Khổng tử, chê trách các nhà Tống Nho, đề cao Chu Công.

Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục và tổ chức thi về giáo lí nhà Phật, ai thông hiểu mới được ở lại làm sư.

Nhà Hồ cũng ngăn cấm và xử phạt nặng những người làm nghề phương thuật. Hồ Quý Ly là người có ý thức đề cao chữ Nôm; tự mình dịch thiên Vô dật (không lười biếng) trong sách hượng thư để dạy cho vua Trần Thuận Tông, dịch sách Kinh Thi để cho các nữ quan dạy các phi tần, cung nữ. Hồ Quý Ly cũng làm nhiều thơ Nôm (hầu hết bị mất).

Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa đổi chế độ thi cử, đặt kì thi Hương ở địa phương và thi Hội ở kinh thành. Những người đã thi Hội phải làm thêm bài văn sách do vua ra đề để định thứ bậc. Trong 4 trường thi, Hồ Quý Ly bỏ trường thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa. Năm 1404, ông đặt thêm trường thứ 5 thi viết chữ và toán. Theo nhà sử học Ngô Thời Sĩ: phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự 4 trường, đến nay còn theo, không thay đổi được Năm 1397, Hồ Quý Ly đề nghị nhà nước đặt học quan ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông và cấp ruộng công cho các phủ, châu từ 10 - 12 – 15 mẫu, tiếc rằng chủ trương này không được thực, hiện.

Cùng năm này, Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc - Thanh Hóa), để lại cho thời sau một công trình kiến trúc lớn tục gọi là thành nhà Hồ. Thành hình chữ nhật, chu vi khoảng 3 km, mặt ngoài được xây bằng những khối đá hình hộp mặt mài nhãn, phẳng dài từ 2-4m, cao 1m, dày 0,7m. Cổng xây rất công phu, ghép đá hình vòm, cao 8m. Trong thành có khu dinh thự, nay còn là những con rồng đá chạy dọc bậc thềm...

Do nhu cầu tăng cường lực lượng quân sự, chuẩn bị chống ngoại xâm, những năm cuối thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV cũng xuất hiện những súng đại bác (thần cơ sang pháo), những thuyền lớn đi biển có lầu với tên gọi "Tải lương cổ lâu, sự thực là những thuyền chiến. Người sáng chế và chỉ đạo chế tác, theo sử sách ghi lại, là Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quý Ly, giữ chức Tả tướng quốc.

Tóm lại, cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XIV đã phản ánh tình trạng suy thoái của nhà Thần cũng như tính chất lỗi thời của cấu trúc nhà nước đương thời. Nhân vật Hồ Quý Ly đã ra đời và nổi bật lên trong bối cảnh đó. Từng bước tiến lên nắm mọi quyền hành, Hồ Quý Ly đã mong muốn cứu vãn tình thế đặc biệt khó khăn và phức tạp đó và ông đã kiên quyết thực hiện cuộc cải cách. Có thể thấy, đó là một cuộc cải cách toàn diện, từ chính trị đến kinh tế - tài chính, văn hóa giáo dục, xã hội. Thông qua các cải cách kinh tế - xã hội, chính trị, Hồ Quý Ly dự định xóa bỏ đặc quyền và thế lực của tầng lớp quý tộc Trần, xây dựng một nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền lực tập trung, để trực tiếp giải quyết những khó khăn trong nước và chống lại các thế lực xâm lược từ bên ngoài. Tuy nhiên, cuộc cải cách có chỗ quá mạnh so với thời đó (như phép hạn điền), có chỗ chưa thật triệt để (gia nô, nô tì không được giải phóng). Chính sách tiền tệ nhằm thu lại và hạn chế việc sử dụng đồng trong chi dùng hàng ngày, tập trung nguyên vật liệu phục vụ quốc phòng - một nhu cầu bức thiết. Nhưng, lưu hành tiền giấy là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta đương thời, không đáp ứng đúng thực tiễn phát triển còn hạn chế của kinh tế hàng hóa cuối thế kỉ XIV. Cải cách văn hóa, giáo dục có ý nghĩa tiến bộ đầy đủ hơn. Trong tình thế bị thúc bách về nhiều mặt, một số việc làm của Hồ Quý Ly đã gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức đoàn kết thống nhất của nhân dân khi xảy ra nạn ngoại xâm. Chính Hồ Nguyên Trừng đã nói lên điều đó khi phát biểu Tôi không sợ đánh giặc mà chỉ sợ lòng dân không theo" và Hồ Quý Ly đã thừa nhận khi thưởng cho Hồ Nguyên Trừng cái hộp trầu bằng vàng.

Dầu sao thì Hồ Quý Ly vẫn là nhà cải cách lớn đầu tiên trong lịch sử nước ta và cuộc cải cách của ông đã khiến người đời sau, các nhà nghiên cứu suy nghĩ, đánh giá.

c.Cuộc xâm lược của nhà Minh và thất bại của nhà Hồ

Tiến trình xâm lược của quân Minh: Từ lâu, nhà Minh đã có âm mưu xâm lược Đại Việt, nhưng khi nhà Hồ thành lập thì tình hình Trung Quốc cũng rối loạn. Mãi đến năm 1403, khi Minh Thái Tông diệt Huệ đế, lên ngôi, âm mưu xâm lược Đại Việt mới được đẩy mạnh. Nhiều đoàn sứ thần được cử sang thăm dò, liên lạc với những quan lại cũ của nhà Trần có tư tưởng chống nhà Hồ, chuẩn bị nội ứng. Năm 1405, lấy cớ nước ta trước đây chiếm Lộc Châu là đất của chúng, vua Minh sai người sang đòi, Hồ Quý Ly phải cử Hoàng Hối Khanh làm cát địa sứ lên cắt 59 thôn ở Cồ Lâu trà cho chúng. Năm 1406, mùa hè, nhà Minh sai hai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung đem hơn 5000 quân kéo sang nước ta, lấy cớ là hộ tống Trần Thiêm Bình về nước làm vua. Thiêm Bình nguyên là một gia nô nhà quý tộc Trần, trốn sang Trung Quốc, đổi tên và tự xưng là con của Trần Nghệ Tông. Quân Minh đến Lạng Sơn thì bị quân nhà Hồ do tướng Hồ Vấn chỉ huy đánh tan. Chúng phải xin nộp Thiêm Bình để được bình yên rút về.

Không chịu ngừng tay, tháng 10 năm ấy, nhà Minh cử 2 đạo quân lớn gồm hàng chục vạn lính chiến và dân công, tấn công xâm lược nước ta theo hai đường vào Lạng Sơn và vào mạn Tây bắc. Những tên tướng cầm đầu là Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh phát hịch rêu rao tìm con cháu họ Trần để lập lại làm vua. Chúng còn cho người vượt biển sang Chămpa, xúi giục Chămpa đánh vào phía nam Đại Ngu. Một số quan chức cũ của nhà Trần đã phản lại Tổ quốc, xin hàng quân Minh làm rối hàng ngũ kháng chiến.

- Cuộc kháng chiến và thất bại của nhà Hồ

Trước thái độ thách thức của nhà Minh, từ những năm 1403 - 1404, nhà Hồ đã khẩn trương chuẩn bị phòng vệ. Biên giới phía nam được củng cố bằng nhiều cuộc hành quân và di dân khai hoang, bảo vệ. Năm 1405, nhà Hồ thành lập 4 kho quân khí (xưởng chế tạo vũ khí), thăm dò, nghiên cứu các vùng biển hiển yếu, củng cố lực lượng quân sự. Nhà Hồ cho dân đóng cọc chặn vùng sông Bạch Hạc (Phú Thọ) ngăn giặc từ bắc xuống, hạ lệnh cho nhân dân các vùng gần đường lớn thông từ bắc xuống kinh thành Thăng Long phải phá bỏ lúa má khi có giặc đến lại lệnh cho dân ở Tam Đài, Bắc Giang (bắc sông Hồng) chuẩn bị nhà cửa sẵn ở vùng đất hoang phía nam sông, tích trữ lương thực để khi giặc đến thì di chuyển, cho dân phu đắp thành Đa Bang (Tiên Phong - Hà Tây).

Cuối năm 1406, quân Minh vượt qua Lạng Sơn đánh về Thăng Long.

Đầu năm 1407 chúng vượt sông Hồng đánh vào thành Đa Bang. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Quân ta chết rất nhiều nhưng vẫn cố thủ. Ngày 20- 1- 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự bị phá vỡ. Giặc tràn vào Thăng Long, cướp bóc của cải, phá hoại cung điện, nhà cửa. Hồ Nguyên Trừng đóng quân ở Hoàng Giang (Hà Nam) Giặc Minh đem quân tấn công, buộc quân của Trừng rút về Muộn Hải (Giao Thủy - Nam Định).Trong lúc đó quân của Hồ Đỗ, Hồ Xạ bị thua ở mạn bắc, cũng rút về Muộn Hải hợp sức với Hồ Nguyên Trừng để chiến đấu. Hai bên đối lũy đánh nhau. Bị bệnh tật nhiều, quân Minh phải rút về Hàm Tử (Hưng Yên). Hồ Nguyên Trừng tập trung quân tấn công giặc nhưng bị thua to, phải cùng Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương rút về Thanh Hoá, đóng lại ở Tây Đô (Vĩnh Lộc). Tháng 1417, quân Minh do Trương Phụ, lộc Thạnh chỉ huy tấn công Tây Đô.

Hồ Quý Ly cùng đình thần chạy vào Nghệ An. Một số quân tướng nhà Hồ đầu hàng quân Minh, dàn đường cho chúng đánh vào. Nhiều tướng của nhà Hồ bị bắt, cuối cùng, mấy cha con Hồ Quý Ly cũng sa lưới kẻ thù ở vùng Kỳ La, Cao Vọng (Kỳ Anh - Hà Tĩnh). Quân Minh tiếp tục đánh vào Thuận Hóa, chiếm nốt phần đất phía nam; trong lúc đó, quân Chămpa cũng thừa cơ đánh ra, lấy lại vùng Thăng Hoa (Quảng Nam, Quảng Ngãi). Như vậy là vào cuối tháng 6- 1407, cuộc kháng chiến của quân nhà Hồ hoàn toàn thất bại. Đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh.

Mặc dầu biết mình ở trong tình thế rất khó khăn, đúng như câu nói của Hồ Nguyên Trừng chỉ sợ lòng dân không theo, nhà Hồ vẫn kiên quyết tổ chức cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh. Thực tế cuộc kháng chiến cũng chứng tỏ rằng, quân tướng nhà Hồ và một bộ phận nhân dân đã chiến đấu rất anh dũng, quyết liệt. Thế nhưng, cuối cùng, cuộc kháng chiến vẫn thất bại và, sau này, khi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa thì những người lãnh đạo lại không phải là quan, tướng của nhà Hồ. Sự thực đó chứng tỏ rằng, thất bại của cuộc kháng chiến có phần do cách đánh nhưng chủ yếu do hậu quả của những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng cuối Trần đã làm suy yếu lực lượng tự vệ của cả triều đình lẫn nhân dân, đồng thời làm tăng thêm mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp thống trị. Mong sớm giải quyết cuộc khủng hoảng trước nguy cơ ngoại xâm đang đến gần, Hồ Quý Ly đã mạnh tay tiến hành cuộc cải cách về mọi mặt, thậm chí giành lấy ngôi vua, lập triều đại mới để cải cách. Nhà Hồ đã làm được một số việc phù hợp với yêu cầu chung của xã hội ta hồi ấy nhưng lại không xoa dịu được những mâu thuẫn sâu sắc vốn có. Một số hành động đàn áp, tàn sát do việc chuyển đổi triều đại gây ra lại tạo thêm khó khăn cho việc giải quyết những mâu thuẫn nói trên. Cuộc kháng chiến thất bại, cha con họ Hồ bị giặc bắt đưa về Trung Quốc cùng với một số tướng lĩnh trung thành.

Nhưng, thất bại của cuộc kháng chiến thời Hồ chỉ là tạm thời. Với truyền thống yêu nước lâu đời và với niềm tự hào sâu sắc về một đất nước văn hiến có hàng ngàn năm lịch sử và 500 năm trưởng thành trong độc lập, tự chủ, nhân dân Đại Việt đã liên tục nổi dậy cầm vũ khí chống quân xâm lược đô hộ, giành lại nền độc lập quý báu của Tổ Quốc. (Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam