The Cure
The Cure | |
---|---|
The Cure trình diễn vào tháng 8 năm 2007. Từ trái qua phải: Pearl Thompson, Jason Cooper, Robert Smith và Simon Gallup | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Nguyên quán | Crawley, West Sussex, Anh, Liên hiệp Anh |
Thể loại | |
Năm hoạt động | 1978–nay |
Hãng đĩa | |
Hợp tác với | |
Thành viên | |
Cựu thành viên | |
Website | www |
The Cure là một ban nhạc rock người Anh thành lập tại Crawley, West Sussex vào năm 1978.[1][2][3] Đội hình của ban trải qua nhiều lần thay đổi nhân sự, riêng vị trí của Robert Smith – người đảm nhiệm các vai trò guitar, hát chính và sáng tác là không đổi. Album đầu tay Three Imaginary Boys (1979) cùng những đĩa đơn đầu tiên của The Cure đã đưa ban nhạc tham gia vào các trào lưu post-punk và new wave vốn rất thịnh hành tại Anh hồi đó. Bắt đầu từ album thứ hai Seventeen Seconds (1980), nhóm đã thể hiện một phong cách vừa mới mẻ, vừa mang đậm màu sắc khắc khổ và đen tối – chính phong cách mới này kết hợp với hình ảnh của Smith trên sân khấu đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ để khai phá dòng nhạc gothic rock cũng như những tiểu văn hóa phát sinh từ dòng nhạc này.
Sau khi phát hành album thứ tư Pornography vào năm 1982, tương lai ban nhạc trở nên bất định. Smith thì rất khao khát vượt qua tiếng tăm bé nhỏ mà nhóm anh có được lúc bấy giờ để hướng tới việc giới thiệu và đưa chất cảm xúc thiên về pop hơn vào nhạc của nhóm. Những ca khúc như "Let's Go to Bed" (1982), "Close To Me" (1985), "Just Like Heaven" (1987), "Lovesong" (1989) và "Friday I'm in Love" (1992) đều đưa tên tuổi của ban nhạc trở nên phổ cập hơn trong mắt khán giả. Nhóm đã phát hành 13 album phòng thu, 2 đĩa EP và hơn 30 đĩa đơn tính đến nay. The Cure đã được tiến cử vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 2019.[4][5]
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]- Three Imaginary Boys (1979)
- Seventeen Seconds (1980)
- Faith (1981)
- Pornography (1982)
- The Top (1984)
- The Head on the Door (1985)
- Kiss Me, Kiss Me, Kiss Me (1987)
- Disintegration (1989)
- Wish (1992)
- Wild Mood Swings (1996)
- Bloodflowers (2000)
- The Cure (2004)
- 4:13 Dream (2008)
- Songs of a Lost World (2024)
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ McPherson, Sam (17 tháng 4 năm 2018). “The Cure working on new music as part of 40th anniversary”. axs.com.
- ^ “The Cure: A Perfect Dream - A Bio of Robert Smith's Goth Band”. Rockarchive. 23 tháng 8 năm 2018.
- ^ Collins, Andrew (8 tháng 7 năm 2019). “The Cure: Anniversary 1978-2018 Live in Hyde Park London – review”. Radio Times.
- ^ “Class of 2019 inductees”. Rock & Roll Hall of Fame (bằng tiếng Anh). Truy cập 13 tháng 12 năm 2018.
- ^ Doyle, Patrick (30 tháng 3 năm 2019). “The Cure's Robert Smith on Rock Hall Induction and 'F-cking Great' New Album”. Rolling Stone.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn đọc
[sửa | sửa mã nguồn]- Apter, Jeff (2006). Never Enough: The Story of The Cure. Omnibus Press. ISBN 1-84449-827-1.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Barbarian, L.; Sutherland, Steve; Smith, Robert (1988). Ten Imaginary Years. Zomba Books. ISBN 0-946391-87-4.
- Thompson, Dave; Greene, Jo-Ann (1988). The Cure: A Visual Documentary. Omnibus Press. ISBN 0-7119-1387-0.
- Hopkins, S.; Smith, Robert; Foo, T. (1989). The Cure: Songwords 1978–1989. Omnibus Press. ISBN 0-7119-1951-8.
- Nuzzolo, Massimiliano (tháng 4 năm 2004). The latest album by The Cure (L'ultimo disco dei Cure). Sironi Publishing. ISBN 88-518-0027-8.
- Thompson, Dave (tháng 10 năm 2005). In Between Days: An Armchair Guide to The Cure. Helter Skelter Publishing. ISBN 1-905139-00-4.
- Carman, Richard (2005). Robert Smith: "The Cure" and Wishful Thinking. Independent Music Press (UK). ISBN 978-0-9549704-1-3.
- Bétrisey, Jean-Christophe; Fargier, David (2007). One Hundred Songs: The Dark Side of the Mood.
- Jeremy Wulc: My Dream Comes True: Carnet de route avec The Cure. 2009.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về The Cure. |
Bản mẫu:The Cure Bản mẫu:Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll 2019