Tông Đản
Tông Đản | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 1046 |
Mất | không rõ |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | tướng lĩnh quân đội |
Dân tộc | Nùng |
Quốc tịch | nhà Lý |
Tông Đản[1]hay Tôn Đản (Chữ Hán: 宗亶 1046[2]- ?) có chỗ chép là Nùng Tông Đản (儂宗亶), là tướng lĩnh người dân tộc Nùng, thuộc tướng của Lý Thường Kiệt, người có công lớn cùng Lý Thường Kiệt đánh phá Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu trên đất nhà Tống, làm ngăn chặn âm mưu thôn tính Đại Việt của Nhà Tống trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077).
Bắc tiến đánh Tống
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1072, vua Lý Thánh Tông chết, con là vua Lý Nhân Tông mới 6 tuổi lên nối ngôi. Nhà Tống cho rằng đó là một cơ hội tốt nên chuẩn bị xâm lược Đại Việt.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt, sau khi củng cố lại lực lượng, ông cho rằng: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc". Lý Thường Kiệt liền tổ chức một cuộc tập kích vào đất Tống nhằm phá tan các thành căn cứ của giặc gồm thành: Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu của Nhà Tống. Lý Thường Kiệt đã huy động hơn 10 vạn quân thủy bộ và cử Tôn Đản làm phó tướng chỉ huy phần bộ binh.
Ngày 27 tháng 10 năm 1075 chiến dịch tập kích quân địch của Lý Thường Kiệt bắt đầu. Ngày 30 tháng 12 năm 1075 quân Đại Việt tiến đánh thành Khâm Châu. Ngày 2 tháng 1 năm 1076, quân Đại Việt đánh chiếm thành Liêm Châu. Ngày 18 tháng 1 năm 1076, Tôn Đản kéo quân đến ngoại thành Ung Châu. Ngay sau đó, đại quân Lý Thường Kiệt cũng đến nơi. Ngày 1 tháng 3 năm 1076, quân Đại Việt hạ thành Ung Châu. Cuộc chiến kết thúc sau 42 ngày.
Sau thắng lợi này vua Lý phong Lý Thường Kiệt làm Điện tiền nguyên súy Phục quốc Thái úy và phong cho Nùng Tôn Đản chức Lang Trung tướng quân, triệu về kinh thành Thăng Long làm Đô quân thống lĩnh Ngự tiền sử.
Theo Tống?
[sửa | sửa mã nguồn]Theo một số nguồn tài liệu thì Tôn Đản từng theo hàng và dâng đất cho nhà Tống. Tuy vậy, do sử sách chép không rõ ràng nên các nguồn tài liệu đều nêu việc này khá dè dặt.
Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt viết:
- Sử sách Tống viết Nùng Tông Đán là người Nùng khá nhiệt liệt, đã từng vào cướp đất Tống, sau theo Tống làm đến Trung vũ tướng quân ở Ung Châu. Y từng bỏ Tống rồi theo Tống nhiều lần. Sử ta thì có nhắc đến Tông Đản lãnh đạo quân khê động theo Lý Thường Kiệt đánh sang Tống (hiện nay còn có phố Tôn Đản ở Hà Nội), nhưng rất sơ sài. Hai âm Đản và Đán lại gần như nhau, không biết hai người có phải là một không?
- Sách Tống còn nói các con của Tông Đán đều theo Lưu Kỷ, phải chăng Tôn Đản là một trong những người con của Tông Đán?
- Thêm nữa, sử Việt như Toàn thư đều viết lãnh đạo quân khê động có Tôn Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc (phò mã),... tức là đều đưa Tông Đản lên đầu. Nhưng Tông Đản cuối cùng là ai ? Sử đều không nói rõ. Theo thiển ý của người chép thì người lãnh đạo quân khê động chính là Lưu Kỷ, nhưng sau này bọn Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn lại bỏ Lý theo Tống, nên sử gia Việt đời sau đưa Tông Đản lên cho đẹp đoạn sử này chăng ?
Nguyễn Vinh Phúc trong sách Phố và đường Hà Nội[3] cũng nêu nghi vấn về việc nhân vật Tôn Đản được đặt tên phố ở Hà Nội, dù từng dâng đất mấy động đi theo nhà Tống.
Cho tới nay vẫn chưa có kết luận chắc chắn về việc Tôn Đản và Tông Đán (邅 và 膻) là hai người hay chỉ là một người và khả năng ông theo Tống còn là vấn đề nghi ngờ. Chỉ có một điều chắc chắn là: Tông Đản đã theo Lý Thường Kiệt đánh thành Ung Châu thắng lợi năm 1075.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Cũng viết là "Tôn Đản" do kị húy nhà Nguyễn.
- ^ Lang trung tướng quân Nùng Tôn Đản
- ^ Nhà Xuất bản Giao thông vận tải, 2002.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- James Anderson (2007). The rebel den of Nùng Trí Cao. Univ of Washington Press. ISBN 0295986891.