Ubre Blanca
Ubre Blanca | |
---|---|
Loài | Bò nhà |
Giống vật nuôi | Giống lai giữa Bò Hà Lan/Bò u |
Giới tính | Cái |
Sinh | 1972 |
Chết | 1985 |
Từ quốc gia | Cuba |
Nổi tiếng vì | Sản lượng sữa cao |
Ubre Blanca (1972–1985) là một con bò ở Cuba nổi tiếng với khả năng sản xuất sữa phi thường. Con bò này, cùng với các đồn điền cà phê "Cordón de La Habana", hệ thống đồng cỏ Voisin, và hệ thống tưới tiêu bằng tia nước siêu nhỏ, tượng trưng cho những nỗ lực của lãnh tụ Fidel Castro nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nông nghiệp Cuba. Tên gọi Ubre Blanca trong tiếng Tây Ban Nha được dịch theo tiếng Anh là "vú trắng".
Sản lượng sữa
[sửa | sửa mã nguồn]Fidel Castro đã giám sát trực tiếp hoạt động nuôi dưỡng Ubre Blanca, trong một khu chuồng trại đầy đủ tiện nghi ở Neuva Gerona, thức ăn được đổi mới mỗi ngày và cho nghe nhạc để giảm thiểu tình trạng căng thẳng.[1] Ubre Blanca đã sản xuất 109,5 lít sữa vào ngày 25 tháng 1 năm 1981, nhiều hơn bốn lần so với sản lượng sữa thông thường của một con bò, lập kỷ lục Guinness thế giới về sản lượng sữa cao nhất trong một ngày.[2][3] Kỷ lục này được giữ trong 39 năm cho đến khi bị một con bò ở Brazil phá vỡ vào ngày 3 tháng 8 năm 2019.[4][5][6] Con bò này cũng đã sản xuất 24.268,9 lít sữa trong chu kỳ tiết sữa, 305 ngày cho con bú, kết thúc vào tháng 2 năm 1982, cũng lập nên kỷ lục Guinness thế giới.[1][7] Con bò này là giống lai giữa bò Hà Lan và bò u.[8]
Truyền thông đưa tin
[sửa | sửa mã nguồn]Fidel Castro đã nhắc đến năng suất khổng lồ của Ubre Blanca trong các bài phát biểu như bằng chứng về kỹ năng chăn nuôi vượt trội của chủ nghĩa cộng sản, và những thành tựu của con bò này thường được báo chí Cuba đưa tin.[1][9] Ông dùng hình ảnh chú bò này là phương tiện để cho thế giới, đặc biệt là Mỹ, nhận biết về sự phát triển công nghệ của Cuba.[2] Đối với nhiều người Cuba, Ubre Blanca gợi lại ký ức về thời kỳ trước kia gọi là "Thời kỳ Đặc biệt"[10]. Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, đàn bò sữa Cuba không còn được bao cấp, đã giảm mạnh, gây ra tình trạng thiếu sữa trầm trọng.[11]
Cái chết
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1985, Ubre Blanca bị an tử khi khoảng 13 tuổi (không rõ tuổi chính xác).[12] Con vật được đưa tiễn bằng nghi thức quân đội trang trọng.[1][13] Tờ báo Granma của Đảng Cộng sản Cuba đã tưởng niệm cái chết của con bò này bằng điếu văn và cáo phó nguyên trang rằng: "Cô ấy đã cống hiến tất cả cho nhân dân".[13] Thợ nhồi bông đã nhồi xác Ubre Blanca và đặt thân xác vào một tủ kính có kiểm soát nhiệt độ ở lối vào của Trung tâm Y tế Gia súc Quốc gia,[14] cách khu phố cổ La Habana khoảng 45 phút lái xe; tại nơi đây vẫn còn đặt để tưởng niệm. Ubre Blanca được vinh danh tại quê hương là thành phố Nueva Gerona, tại đây đã dựng một bức tượng đá cẩm thạch để tưởng nhớ chú bò này.[15] Kể từ khi con bò này chết, giới khoa học Cuba đã không thành công khi nhân bản Ubre Blanca bằng cách sử dụng các mẫu mô đông lạnh.[7][8][10]
Thơ ca
[sửa | sửa mã nguồn]Trong bài thơ Ganadería, nhà thơ sống lưu vong người Cuba Ricardo Pau-Llosa kể lại câu chuyện về Ubre Blanca như một ẩn dụ về sự trỗi dậy nắm quyền của Castro.[16]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d Hải Đăng (29 tháng 5 năm 2022). “Con bò kỳ diệu của Fidel Castro”. Báo Khoa học và Phát triển. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b Romero, Vidal (2021). Security and Illegality in Cuba's Transition to Democracy (bằng tiếng Anh). Tamesis. tr. 64. ISBN 978-1-85566-352-7.
- ^ Egan, James (24 tháng 3 năm 2018). 1000 Facts about Historic Figures (bằng tiếng Anh). 3. Lulu Press. tr. 62. ISBN 978-0-244-67697-1.
- ^ Azevedo, Daniel (12 tháng 3 năm 2020). “Brazil: Cow breaks world record for milk production”. Dairy Global. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
- ^ Antônio, João (9 tháng 3 năm 2020). “Girolanda entra para o livro mundial dos recordes”. Balde Branco (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
- ^ “Largest milk yield from a cow in 24 hours (mechanical milking)”. Guinness World Records. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b Acosta, Dalia (13 tháng 10 năm 2002). “Still a Dream to Clone Miracle Cow”. Inter Press Service. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b “Desperately short of milk, Cuba tries to resurrect a hero of the revolution”. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). 22 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
- ^ Monzote, Reinaldo Funes (25 tháng 2 năm 2019), “Ubre Blanca and the Politics of Milk in Socialist Cuba”, Oxford Research Encyclopedia of Latin American History (bằng tiếng Anh), doi:10.1093/acrefore/9780199366439.013.577, ISBN 978-0-19-936643-9, truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024
- ^ a b Fritsch, Peter (21 tháng 5 năm 2002). “Udderly Fantastic: Cuba Hopes To Clone Its Famous Milk Cow”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2024.
- ^ Jr, Roy Blount (15 tháng 3 năm 2016). Save Room for Pie: Food Songs and Chewy Ruminations (bằng tiếng Anh). Farrar, Straus and Giroux. tr. 33. ISBN 978-0-374-71288-4.
- ^ “Productive Cuban Milk Cow Dead at 13”. Los Angeles Times. 1 tháng 3 năm 1985. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b Bremzen, Anya von (14 tháng 11 năm 2017). Paladares: Recipes Inspired by the Private Restaurants of Cuba (bằng tiếng Anh). Abrams. ISBN 978-1-68335-145-0.
- ^ Guinness World Records 2016 (bằng tiếng Anh). Guinness World Records. 10 tháng 9 năm 2015. tr. 118. ISBN 978-1-910561-03-4.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
- ^ Karp, Myles (10 tháng 5 năm 2018). “The History of Cuba's Ongoing Obsession with Ice Cream”. Vice. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
- ^ Pau-Llosa, Ganaderia. “Ganaderia”. Michigan quarterly review. Michigan Publishing - University of Michigan Library. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.