Bước tới nội dung

Văn hóa đại chúng Nhật Bản tại Hoa Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Dòng chảy phim hoạt hình (anime) và truyện tranh manga Nhật Bản tràn vào Hoa Kỳ đã và đang làm gia tăng sự chú ý của người Mỹ tới hoạt hình Nhật. Dòng phim anime khác với hoạt hình Mỹ về phạm vi khán giả và chủ đề phim. Anime hướng đến đối tượng khán giả thanh thiếu niên và trẻ tuổi nhiều hơn so với hoạt hình Mỹ, và thường liên quan đến nhiều chủ đề nghiêm trọng hơn. Anime và manga hợp thành vô số các thể loại như lãng mạn, hành động, kinh dị, hài hước, chính kịch cũng như bao trùm đa dạng các đề tài như người trẻ tự sát, ganh đua trong trường cấp 3, bình luận xã hội và nhiều đề tài nữa. Được mô tả như một cánh cửa đưa nhiều người hâm mộ bước vào một nền văn hóa hoàn toàn mới; nó được dùng như một cách thức để học hỏi về Nhật Bản. Những người say mê điên cuồng phim anime tại Mỹ tự gọi họ một cách thân mật là otaku, mặc dù từ này ở Nhật tương đồng với geek, và họ thường bị xã hội lên án, chỉ trích. Rất giống với các nhóm văn hóa punkgoth, anime cũng đang trở thành một tiểu văn hóa.

Anime tại Hoa Kỳ

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn hóa anime tại Mỹ bắt đầu từ một cộng đồng ngách vốn có một cơ sở thường dân do các nhóm hâm mộ ở quy mô địa phương xây dựng.[1]

Cosplayer người Mỹ

[sửa | sửa mã nguồn]
Cosplay tác phẩm Rozen Maiden

Từ "cosplay" tương ứng với cách viết rút gọn của cụm từ tiếng Anh là "costume play" (hóa trang), mặc dù từ này được tạo ra ở Nhật nhưng việc thực hành nó không chỉ có mỗi người Nhật.

Sức ảnh hưởng và doanh thu bán manga

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà báo Calvin Reid của tờ tạp chí Publishers Weekly (Nhà xuất bản Hàng tuần) ước tính "Tổng doanh số bán manga tại Mỹ năm 2007 khởi sắc khoảng 10%, đến mức hơn 220 triệu đô la Mỹ, cũng như ước tính khoảng 1.468 đầu truyện đã được phát hành vào năm ngoái."[2] Vì sự phổ biến của manga đang trên đà gia tăng nên các nghệ sĩ viết tiểu thuyết hình ảnh đặc trưng cũng đang bắt đầu áp dụng các đặc trưng của manga vào phong cách của họ.

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Nam nghệ sĩ Miyavi

Các nghệ sĩ nhạc poprock Nhật Bản cũng đang gia tăng mức độ nổi tiếng trong cộng đồng người nghe nhạc của Mỹ, ví dụ như: L'Arc-en-Ciel, Miyavi, T.M.Revolution, Utada Hikaru, Asian Kung-Fu Generation, Dir En Grey, Yellow Magic OrchestraSusumu Hirasawa.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Andrew C. Mckevitt (ngày 1 tháng 11 năm 2010). "You Are Not Alone!": Anime and the Globalizing of America”. Báo Lịch sử Ngoại giao (Diplomatic History) (bằng tiếng Anh). 34 (5). tr. 893–921. doi:10.1111/j.1467-7709.2010.00899.x. ISSN 0145-2096.
  2. ^ Calvin Reid (ngày 7 tháng 12 năm 2007). “New Report Finds Manga Sales Up; Anime DVD Down in '07”. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • J. Baus (ngày 17 tháng 12 năm 2007). “Anime Releases Tumble: Manga Market Girds for Challenges”. Tạp chí ICv2.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Roland Kelts (2006). Soạn tại New York. Japanamerica: How Japanese Pop Culture Has Invaded the U.S. Nhà xuất bản Palgrave Macmillan.
  • J. Sarafin (ngày 24 tháng 4 năm 2008). “Manga Sales Rose Slightly in America”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  • Frederik L. Schodt (2007). Soạn tại thành phố Berkeley, bang California, Hoa Kỳ. Dreamland Japan: Writings on Modern Manga. Nhà xuất bản Stone Bridge (Cầu Đá).
  • Julian Sefton-Green (2003). Soạn tại Luân Đôn. Digital Diversions: Youth Culture in the Age of Multimedia. Nhà xuất bản Stone Bridge (Cầu Đá).
  • Toni Johnson-Woods (2010). Manga: An Anthology of Global and Cultural Perspectives. Soạn tại New York. Tập đoàn Xuất bản Quốc tế Continuum (Continuum International Publishing Group)
  • Chris Kohler (2016). Power-Up: How Japanese Video Games Gave the World an Extra Life. Soạn tại New York. Nhà xuất bản Dover (Dover Publications)