Yasen (lớp tàu ngầm)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Yasen (lớp tàu ngầm)
Cấu hình của tàu ngầm tấn công lớp Yasen
K-560 Severodvinsk
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Yasen
Xưởng đóng tàu Sevmash
Bên khai thác  Hải quân Nga
Lớp trước
Lớp sau Lớp Laika
Kinh phí Giá thành của tàu ngầm Kazan là 47 tỉ rúp (2011)[1]
Thời gian đóng tàu 1993–nay
Thời gian hoạt động 2013–nay
Chế tạo 5
Dự tính 11[2]
Hoàn thành 4
Đang hoạt động 3[3]
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Nuclear cruise missile submarine
Trọng tải choán nước
  • khi nổi: 8.600 tấn
  • Khi lặn: 13.800 tấn[4]
Chiều dài Yasen:139,2 m (457 ft)[5][6][7]
Yasen-M: 130 m (430 ft)
Sườn ngang 13 m (43 ft)[5][6][7]
Động cơ đẩy OK-650KPM[8] pressurized water reactor 200 MWt turbines of 43,000 shp
Tốc độ
  • Surfaced: 20 kn (37 km/h; 23 mph)
  • Submerged (silent): 28 kn (52 km/h; 32 mph)
  • Submerged (max): 35 kn (65 km/h; 40 mph)[cần dẫn nguồn]
Tầm xa Unlimited
Tầm hoạt động Chỉ bị giới hạn bởi lương thực thực phẩm mà tàu mang theo
Độ sâu thử nghiệm
  • Khả năng lặn sâu an toàn: 1.475 feet (450m)
  • Độ sâu tối đa: 1.804 feet (580m)
  • Độ sâu tối đa tàu chịu được: 2.160 feet (658m)
Thủy thủ đoàn tối đa Yasen: 85[9]
Yasen-M: 64[10]
Hệ thống cảm biến và xử lý Rim Hat ESM/ECM Snoop Pair Surface Search Radar
Vũ khí
  • Yasen:Yasen-M:[11]
  • Giếng phóng thẳng đứng với cơ số đạn:
    • 32 (8 × 4) tên lửa hành trình chống tàu P-800 Oniks hoặc tên lửa Kalibr, tên lửa chống ngầm và tên lửa hành trình đối đất.
  • 10 x ống phóng ngư lôi (533 mm) với ngư lôi hạng nặng Futlyar (UGST-M)[12]
  • Tên lửa phòng không Igla-M[13]

Tàu ngầm lớp Yasen, định danh của Nga là Project 885 YasenProject 885M Yasen-M (tiếng Nga: Ясень, nguyên văn 'cây tần bì', Tên ký hiệu của NATO: Severodvinsk), hay cũng thường được nhắc đến là tàu ngầm lớp Graney, là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Tàu được thiết kế bởi Viện thiết kế hàng hải Malakhit, và được đóng bởi Sevmash để trang bị cho Hải quân Nga. Việc thiết kế con tàu được bắt đầu từ những năm 1980s với chiếc đầu tiên được khởi đóng vào những năm 1990s và đến 2013 được đưa vào trang bị. Hai chiếc tàu ngầm thuộc lớp cải tiến Yasen-M với thiết kế ngắn hơn nguyên mẫu đã được đưa vào hoạt động năm 2021 và thêm sáu chiếc khác đang được đóng mới.[14][15] trên thiết kế của tàu ngầm lớp Akula và lớp Alfa, tàu ngầm lớp Yasen sẽ thay thế các tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân có từ thời kỳ Liên Xô.[cần dẫn nguồn] Tàu ngầm lớp Akula được thiết kế tối ưu cho nhiệm vụ tìm diệt tàu ngầm đối phương, trong khi đó phiên bản tàu ngầm Yasen lại được sử dụng như nền tảng để phóng tên lửa có điều khiển (SSGN).[16]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm lớp Yasen được thiết kế bởi Cục thiết kế hàng hải Malakhit, vốn ra đời từ sự sáp nhập của các viện thiết kế SKB-143 và TsKB-16 vào cuối những năm 1950s.[cần dẫn nguồn] Công việc thiết kế tàu ban đầu được bắt đầu vào năm 1977 và hoàn thành vào năm 1985.[17] Malakhit là một trong ba viện thiết kế tàu ngầm chính của Nga, bên cạnh Viện thiết kế hàng hải trung ương RubinCục thiết kế trung ương Lazurit.

Con tàu đầu tiên được khởi đóng vào ngày 21 tháng Mười hai năm 1993, và dự kiến đưa vào trang bị năm 1998.[18] Tuy nhiên, chương trình phát triển con tàu đã bị chậm trễ do thiếu vốn đầu tư và dường như trong suốt năm 1996, công việc liên quan đến phát triển tàu ngầm hoàn toàn bị ngừng lại. Một số báo cáo đưa ra rằng tính đến năm 1999, con tàu mới chỉ hoàn thiện chưa đến 10%.[cần dẫn nguồn] Năm 2003 chương trình phát triển đã nhận được thêm vốn bổ sung và công việc hoàn thiện con tàu đã được bắt đầu lại.

Năm 2004, có báo cáo rằng công việc đóng tàu phát triển tốt, tuy nhiên, do việc tập trung vào lớp tàu ngầm Borei mới, dẫn đến việc chiếc tàu ngầm đầu tiên của lớp Yasen (Severodvinsk) không thể hoàn thành kịp trước năm 2010. Vào tháng Bảy năm 2006 chủ tịch của Uỷ ban công nghiệp quốc phòng Nga là Vladislav Putilin đã tuyên bố sẽ có hai tàu ngầm lớp Yasen gia nhập Hải quân Nga trước năm 2015.[19]

Ngày 24 tháng Bảy năm 2009, tàu ngầm thứ hai, chiếc Kazan bắt đầu được khởi đóng. Ngày 26 tháng Bảy, Hải quân Nga đã tuyên bố kể từ năm 2011, mỗi năm sẽ có một tàu ngầm đa nhiệm được khởi đóng, và không chỉ riêng lớp tàu Yasen.[cần dẫn nguồn]

Tháng Tám năm 2009, trong một bản báo cáo từ Tình báo Hải quân Mỹ, tàu ngầm Yasen được đánh giá là tùa ngầm có tiếng ồn thấp nhất và khó bị phát hiện nhất trong Hải quân Nga, nhưng vẫn chưa sánh được với tàu ngầm của Hải quân Mỹ, ví dụ lớp Seawolf và lớp Virginia.[20][21]

Lễ bàn giao tàu ngầm Severodvinsk.

Ngày 26 tháng Bảy năm 2013, chiếc tàu ngầm thứ ba, Novosibirsk, được đặt ki.[22]

Ngày 17/6/2014 tàu ngầm Severodvinsk đã được bàn giao cho Hải quân Nga.[23]

Tàu ngầm Kazan được cho là cùng với năm tàu ngầm hạt nhân khác, được triển khai ở biển Bắc Đại Tây Dương vào mùa Xuân năm 2020.[24] Dù vậy, con tàu vẫn được thử nghiệm thêm trên biển.[25]

Ngày 4/10/2021, tàu ngầm Severodvinsk đã thực hiện hai vụ phóng tên lửa Zircon từ cả trong trạng thái nổi và chìm.[26] Tên lửa phóng từ biển Trắng đã bắn trúng mục tiêu trên biển Barents.

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Mặt cắt tàu ngầm Yasen

Tàu ngầm lớp Yasen được thiết kế với công nghệ tiên tiến với trang bị gồm tên lửa hành trình, tên lửa chống tàu, chống ngầm như P-800 Oniks, họ tên lửa Kalibr hoặc tên lửa 3M51.[cần dẫn nguồn] Kalibr-PL được phát triển với nhiều phiên bản gồm 3M54K (pha cuối đạt tốc độ siêu âm) và 3M54K1 (tốc độ dưới âm), tên lửa 91R1 chống ngầm, và phiên bản đối đất 3M14K. Trong tương lai, Hải quân Nga sẽ có khả năng trang bị cho các tàu ngầm 885M tên lửa siêu vượt âm 3M22 Zircon.[27] Mỗi tàu ngầm có khả năng mang theo 32 tên lửa Kalibr hoặc 24 tên lửa Oniks (một số nguồn nói có khả năng mang 40 tên lửa Kalibr và 32 tên lửa Onik)[28] được chứa trong tám (mười đối với 885M) ống phóng thẳng đứng.[29][30][31] Tàu ngầm cũng sẽ có mười ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm, cũng như mìn và tên lửa chống ngầm RPK-7.[32][12]

Đây là lớp tàu ngầm đầu tên của Nga được trang bị sonar định vị thủy âm dạng cầu, với tên định danh MGK-600 Irtysh-Amfora.[33] Sonar này đã được thử nghiệm trên tàu ngầm lớp Yankee.[34] Do kích thước lớn của sonar dạng cầu, ống phóng ngư lôi được đặt nghiêng.[17] Thân tàu ngầm được chế tạo từ thép có độ từ tính thấp.[35] Khác với các tàu ngầm khác của Nga được thiết kế với hai lớp vỏ, tàu ngầm lớp Yasen được thiết kế với phần lớn là một lớp.[36] Số lượng thủy thủ đoàn là 85 đối với tàu đề án 885 và 65 đối với đề án 885M,[9] cho thấy độ tự động hóa rất cao của các hệ thống trên tàu ngầm. Ở chiều ngược lại, tàu ngầm lớp Virginia mới nhất của Mỹ có thủy thủ đoàn 134 người.[35]

Tàu ngầm lớp Yasen cũng là tàu ngầm đầu tiên được trang bị lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ tư.[37][38] Lò phản ứng được phát triển bởi Afrikantov OKBM,[39][40] sẽ có tuổi thọ lõi hạt nhân là 25 đến 30 năm và không cần phải nạp lại nhiên liệu hạt nhân.[41] Tuốc bin hơi nước cho tàu ngầm được phát triển bởi Kaluga Turbine Works.[42] Việc sử dụng lò phản ứng KTP-6 mới trên tàu ngầm Yasen-M cũng khiến tiếng ồn thủy âm của tàu được giảm đi rõ rệt.[cần dẫn nguồn]

Tàu ngầm Yasen cũng được trang bị khoang thoát hiểm VKS cho thủy đoàn đặt ở vị trí cột tàu.[17]

Giá thành[sửa | sửa mã nguồn]

Ước tính ban đầu, giá thành chế tạo của chiếc đầu tiên thuộc lớp Yasen khoảng 1 tỉ đô la đến 2 tỉ đô la.[43] Năm 2011, có báo cáo cho biết chiếc đầu tiên, tàu ngầm Severodvinsk, có đơn giá 50 tỉ rúp, tương đương với 1,6 tỉ đô la[44] trong khi chiếc thứ hai, Kazan, sẽ có đơn giá khoảng 47 tỉ rúp (725 triệu đô la).[1] Năm 2011, Bộ trưởng quốc phòng Nga Anatoliy Serdyukov chỉ trích việc đội giá thành của tàu ngầm lớp Borei và Yasen, ông đã nói sự đội giá của tàu ngầm đầu tiên và chiếc thứ hai của lớp Yasen là không thể hiểu được. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh Bộ quốc phòng và nhà máy đóng tàu Sevmash sẽ giải quyết vấn đề giá thành. Tập đoàn đóng tàu thống nhất cho biết lượng công việc của Sevmash chỉ đóng góp 30% giá thành, 70% còn lại đến từ các nhà thầu/nhà cung cấp phụ.[45]

Tương lai[sửa | sửa mã nguồn]

Do vấn đề về giá thành của các tàu ngầm đầu tiên lớp Yasen mà một số nguồn tin cho rằng thế hệ tàu ngầm tấn công nhanh tiếp theo sẽ có kích thước nhỏ hơn[46][47] với trang bị vũ khí khiêm tốn hơn.[48] Thế hệ tàu ngầm tiếp theo kế thừa Yasen được phát triển từ năm 2015[49][50][51] và được truyền thông gọi là lớp Husky.[52] Hiện tại thiết kế cuối cùng của con tàu mới chưa được hoàn tất và có khả năng quay về thiết kế truyền thống với ống phóng ngư lôi ở phía mũi (thay vì ở giữa như tàu ngầm Yasen) và có sonar bé hơn.[53] Tàu ngầm đầu tiên dự kiến sẽ được chuyển giao cho Hải quân Nga vào năm 2027.[54]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b На что потратят 280 миллиардов [What will 280 billion be spent on?]. Kommersant (bằng tiếng Nga). 10 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  2. ^ “Russia to build ten Yasen-class subs”. Rusnavy.com. 22 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  3. ^ “Новые атомные подлодки "Князь Олег" и "Новосибирск" приняли в состав ВМФ России”. Tass.com. 21 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ “Russia's new assassin sub has a fatal flaw”. The Week. 15 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015.
  5. ^ a b Место на стапеле заняла "Казань" [Submarine "Kazan" laid down]. Rossiyskaya Gazeta (bằng tiếng Nga). 27 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2009.
  6. ^ a b “The might of Russia's advanced nuclear submarine”. TASS. 31 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2017.
  7. ^ a b “АПЛ "Красноярск" успешно прошла гидравлические испытания” [The nuclear submarine "Krasnoyarsk" has successfully passed hull tests]. Russian Arms (bằng tiếng Nga). 24 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2017.
  8. ^ Ma, Chunyan; von Herpel, Frank (2001). “Ending the Production of Highly Enriched Uranium for Naval Reactors” (PDF). The Nonproliferation Review. 8 (1): 91. doi:10.1080/10736700108436841. ISSN 1073-6700. S2CID 109931735.
  9. ^ a b Protopopov, Nikolay (8 tháng 10 năm 2018). “И подлодку "Ясень-М" я сравнил с "Вирджинией" [The "Yasen-M" submarine compared with the "Virginia" class]. Naukatehnika.com (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  10. ^ “АПЛ Проекта 885 Ясень” [Project 885 "Yasen" nuclear submarine]. Userapi.com (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2017.
  11. ^ Epsilon (31 tháng 7 năm 2014). “Yasen: The future of Russian SSN fleet”. Battle Machines. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2017.
  12. ^ a b Sutton, H.I. (13 tháng 4 năm 2019). “Yasen Class: Russia's most potent submarines”. Covert Shores. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  13. ^ Рамм, Алексей; Степовой, Богдан (6 tháng 4 năm 2020). “Форменное разнообразие: подводные лодки "Ясень" меняют внешний вид” [Variety of shapes: Yasen submarines change their appearance]. Izvestia (bằng tiếng Nga).
  14. ^ Tsypkin, Mikhail (tháng 7 năm 2010). “The Challenge of Understanding the Russian Navy”. Trong Blank, Stephen J.; Weitz, Richard (biên tập). The Russian Military Today and Tomorrow: Essays in Memory of Mary Fitzgerald (PDF). Carlisle, Pennsylvania: Strategic Studies Institute, U.S. Army War College. tr. 349. ISBN 978-1-58487-449-2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
  15. ^ Maerli, Morten Bremer (tháng 6 năm 2001). “Components of Naval Nuclear Fuel Transparency” (PDF). NATO. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
  16. ^ Kaushal, Sidharth; Byrne, James; Byrne, Joe; Somerville, Gary (28 tháng 5 năm 2021). “The Yasen-M and the Future of Russian Submarine Forces”. RUSI.
  17. ^ a b c “SSN Project 885 Severodvinsk ("Yasen") class”. Harpoon Databases. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  18. ^ Kopte, Susanne (tháng 8 năm 1997). “Nuclear Submarine Decommissioning and Related Problems” (PDF). Bonn International Center for Conversion. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  19. ^ Lantratov, Konstantin (14 tháng 3 năm 2006). “Russia Chooses Its Future Armament”. ATO.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  20. ^ The People's Liberation Army Navy, A Modern Navy with Chinese Characteristics (PDF) (Bản báo cáo). Office of Naval Intelligence. tháng 8 năm 2009. tr. 22. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2010.
  21. ^ “Run Silent, Run Deep”. FAS Military Analysis Network. 8 tháng 12 năm 1998. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  22. ^ “Севмаш заложит АПЛ "Новосибирск" ко Дню ВМФ” [Sevmash will lay down the nuclear submarine "Novosibirsk" on Navy Day]. flotprom.ru (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2013.
  23. ^ Korolkov, Alexander (17 tháng 6 năm 2014). “Russia's top-secret nuclear submarine comes into service”. Russia Beyond the Headlines. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  24. ^ Giannangeli, Marco (19 tháng 4 năm 2020). “The new Cold War: British forces scramble to track down Moscow's killer super-sub”. Daily Express. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2020.
  25. ^ “Подводный ракетный крейсер "Казань" вошел в состав ВМФ” [The submarine missile cruiser "Kazan" joined the Navy]. ТАSS (bằng tiếng Nga). 7 tháng 5 năm 2021.
  26. ^ “Submarine Severodvinsk carries out underwater launch of Tsirkon missile”.
  27. ^ Melnikov, Ruslan (15 tháng 4 năm 2017). “Российская ракета "Циркон" достигла восьми скоростей звука” [Russian Zircon rocket reaches eight times the speed of sound]. Rossiyskaya Gazeta (bằng tiếng Nga). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2017.
  28. ^ Karnazov, Vladimir (30 tháng 7 năm 2012). “Carrier Killers for the Russian Navy: The Strategic Environment”. Center for Security Studies. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2016.
  29. ^ “Russian/Soviet Sea-Based Anti-Ship Missiles”. Stealth Machinery forum. tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2016.
  30. ^ “The Klub Missile Family” (PDF). Defense Threat Information Group. tháng 5 năm 2005. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012.
  31. ^ Spahn, Tom (tháng 6 năm 2013). “The Russian Submarine Fleet Reborn”. Proceedings. U.S. Naval Institute. 139 (6). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  32. ^ “Подводные лодки проекта 885 "Ясень". Досье” [Dossier on submarines of project 885 "Yasen"]. TASS (bằng tiếng Nga). 29 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  33. ^ “Project 885 "Yasen" nuclear submarine”. Warmy. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  34. ^ “History: 1982–2011”. Rubin Design Bureau. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  35. ^ a b “Yasen / Graney Class Submarine, Russia”. Naval-Technology.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  36. ^ RT Documentary (5 tháng 8 năm 2018). “Yasen-M: Destroyer of the Depths”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2018.
  37. ^ Nilsen, Thomas; Kudrik, Igor; Nikitin, Alexandr (1996). “Chapter 2: Nuclear-powered vessels”. The Russian Northern Fleet: Sources of Radioactive Contamination. Bellona Foundation (Bản báo cáo). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  38. ^ Nilsen, Thomas; Kudrik, Igor; Nikitin, Alexandr (1996). “Chapter 2.3: Development of naval reactors”. The Russian Northern Fleet: Sources of Radioactive Contamination. Bellona Foundation (Bản báo cáo). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2010.
  39. ^ А.Л., Берензон. “About OKBM”. OKBM. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  40. ^ “Nizhny Novgorod company to put 10 reactor units for Borei and Yasen”. Engineering Russia. 15 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2016.
  41. ^ ARG. “Graney Class Nuclear-Powered Attack Submarine”. Military-Today.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  42. ^ Konovalov, Alexei (7 tháng 6 năm 2008). “Project 885 and 885M "Ash". Stealth Machinery. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2013.
  43. ^ “Russians Launch First Yasen-class Submarine; Others in Doubt?”. Center for Strategic and International Studies. 17 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  44. ^ “Media Got Wind of Submarines Cost”. Rusnavy.com. 3 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  45. ^ “Yasen”. Russian Defense Policy. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  46. ^ “Future Projects”. Stealth Machinery. 23 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2015.
  47. ^ Pettersen, Trude (8 tháng 3 năm 2016). “Hunter for Red October plans for comeback”. The Barents Observer. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2016.
  48. ^ “Russian naval shipbuilding plans: Rebuilding a blue water navy”. Russian Military Reform. 23 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
  49. ^ Keck, Zachary (23 tháng 6 năm 2015). “Russia Is Already Developing New Fifth-Generation Submarines”. The National Interest. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  50. ^ “Russia's Next Gen Husky-class SSN to combine multipurpose, strategic submarine characteristics”. Navy Recognition.com. 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2016.
  51. ^ “Атомной Подводной Лодки Пятого Поколения (Photo)” [Fifth Generation Nuclear Submarine]. VK.com (bằng tiếng Nga). 28 tháng 3 năm 2016.
  52. ^ “Russia Test-Fires Hypersonic Zircon Missiles For Nuclear Submarines, Weapons To Reach Mach 5 Speed”. International Business Times. 17 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  53. ^ Sutton, H.I. (1 tháng 4 năm 2017). “Husky SSN”. Covert Shores. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2017.
  54. ^ Gady, Franz-Stefan (1 tháng 6 năm 2018). “Is Russia Working on a 5th-Generation Nuclear Sub With Hypersonic Missiles?”. The Diplomat. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2018.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Vilches Alarcón, Alejandro A. (2022). From Juliettes to Yasens: Development and Operational History of Soviet Cruise-Missile Submarines. Europe @ War (22). Warwick, UK: Helion & Co. ISBN 978-1-915070-68-5.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]