Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sét kết”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 17 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q836062 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:Chacoan turquoise with argillite.jpg|phải|nhỏ|250px|Một bộ sưu tập các miếng khảm từ argillit màu xanh Thổ và da cam của [[Các sắc tộc Pueblo cổ đại|người Pueblo cổ đại]] (Anasazi) từ [[Vườn lịch sử quốc gia văn hóa Chaco|hẻm núi Chaco]] (niên đại khoảng 1020–1140).]]
[[Tập tin:Chacoan turquoise with argillite.jpg|phải|nhỏ|250px|Một bộ sưu tập các miếng khảm từ argillit màu xanh Thổ và da cam của [[Các sắc tộc Pueblo cổ đại|người Pueblo cổ đại]] (Anasazi) từ [[Vườn lịch sử quốc gia văn hóa Chaco|hẻm núi Chaco]] (niên đại khoảng 1020–1140).]]
'''Sét kết''' hay '''argillit''' (acgilit), từ [[tiếng Hy Lạp]]: árgillos nghĩa là [đất] sét; líthos nghĩa là đá, là [[đá trầm tích]] hạt mịn, bao gồm chủ yếu là các hạt [[đất sét|sét]] đã chai cứng. Các dạng argillit về cơ bản là [[bùn]] hay [[bùn cửa biển]] bị [[hóa đá]]. Chúng chứa các lượng hạt với kích thước cỡ [[đất bùn]] khác nhau. Nó có thể coi là dạng trung gian giữa sét còn nặn được với đá phiến sét đã phân thành phiến mỏng. Khác với sét, sét kết có độ cứng cao hơn và không có khả năng thấm nước.
'''Sét kết''' hay '''argillit''' (acgilit), từ [[tiếng Hy Lạp]]: árgillos nghĩa là [đất] sét; líthos nghĩa là đá, là [[đá trầm tích]] hạt mịn, bao gồm chủ yếu là các hạt [[đất sét|sét]] đã chai cứng. Các dạng argillit về cơ bản là [[bùn]] hay [[bùn cửa biển]] bị [[đá hóa|hóa đá]]. Chúng chứa các lượng hạt với kích thước cỡ [[đất bùn]] khác nhau. Nó có thể coi là dạng trung gian giữa sét còn nặn được với đá phiến sét đã phân thành phiến mỏng. Khác với sét, sét kết có độ cứng cao hơn và không có khả năng thấm nước.


Theo thành phần hóa học và khoáng vật học, argillit rất giống với đất sét, nhưng khác ở chỗ có độ cứng lớn hơn và không có khả năng bị mềm nhũn ra trong nước. Hợp thành về cơ bản từ các [[khoáng vật sét]] kiểu [[mica nước]] (thủy mica), [[montmorillonit]] và [[clorit (khoáng vật)|clorit]] với hỗn hợp các hạt [[thạch anh]], [[mi ca]], [[fenspat]]. Tương tự như [[đất sét]], argillit tạo thành hoặc là các vỉa đồ sộ, hoặc là các biến thể nhiều thớ mỏng. Argillit - một dạng [[đá trầm tích]] điển hình, đặc trưng cho các khu vực uốn nếp địa máng cũng như cho các tầng trầm tích bị nhấn chìm sâu của các nền đá.
Theo thành phần hóa học và khoáng vật học, argillit rất giống với đất sét, nhưng khác ở chỗ có độ cứng lớn hơn và không có khả năng bị mềm nhũn ra trong nước. Hợp thành về cơ bản từ các [[khoáng vật sét]] kiểu [[mica nước]] (thủy mica), [[montmorillonit]] và [[clorit (khoáng vật)|clorit]] với hỗn hợp các hạt [[thạch anh]], [[mi ca]], [[feldspat|fenspat]]. Tương tự như [[đất sét]], argillit tạo thành hoặc là các vỉa đồ sộ, hoặc là các biến thể nhiều thớ mỏng. Argillit - một dạng [[đá trầm tích]] điển hình, đặc trưng cho các khu vực uốn nếp địa máng cũng như cho các tầng trầm tích bị nhấn chìm sâu của các nền đá.


Các loại argillit biến dần thành [[đá phiến sét]] khi quá trình hình thành các lớp có khả năng tách bóc được, đặc trưng cho đá phiến sét, được hình thành và phát triển. Tên gọi khác cho các dạng argillit hóa đá kém hơn là ''[[đá bùn]]'' (nê nham). Các loại đá này, mặc dù biến thiên về thành phần hợp thành, nhưng thông thường có hàm lượng [[nhôm]] và [[silica]] (điôxít silic) khá cao với các [[cation]] [[kim loại kiềm|kiềm]] và [[kim loại kiềm thổ|kiềm thổ]] biến thiên. Thuật ngữ ''[[pelit]]'' thông thường được áp dụng cho các loại [[đá (địa chất)|đá]] và [[trầm tích]] này. Sự [[biến chất]] của argillit tạo ra [[đá bản]], [[đá thiên mai]] (phyllit), và [[đá phiến]] pelit.
Các loại argillit biến dần thành [[đá phiến sét]] khi quá trình hình thành các lớp có khả năng tách bóc được, đặc trưng cho đá phiến sét, được hình thành và phát triển. Tên gọi khác cho các dạng argillit hóa đá kém hơn là ''[[đá bùn]]'' (nê nham). Các loại đá này, mặc dù biến thiên về thành phần hợp thành, nhưng thông thường có hàm lượng [[nhôm]] và [[silic điôxít|silica]] (điôxít silic) khá cao với các [[ion|cation]] [[kim loại kiềm|kiềm]] và [[kim loại kiềm thổ|kiềm thổ]] biến thiên. Thuật ngữ ''[[pelit]]'' thông thường được áp dụng cho các loại [[đá]] và [[trầm tích]] này. Sự [[biến chất]] của argillit tạo ra [[đá bản]], [[đá thiên mai]] (phyllit), và [[đá phiến]] pelit.


Các [[Nghệ thuật vùng duyên hải tây bắc Bắc Mỹ|hình chạm khắc Haida]] ở [[quần đảo Queen Charlotte]] dọc theo vùng bờ biển của [[British Columbia]] là các kho báu nghệ thuật đáng chú ý của thổ dân Bắc Mỹ, được tạo ra từ một loại argilit hạt mịn màu đen và cứng, đôi khi được gọi là "[[đá bản]] đen", chỉ có tại mỏ đá trên [[núi Slatechuck]] ở khu vực thượng nguồn [[lạch Slatechuck]], gần thị trấn [[Skidegate, British Columbia|Skidegate]] trên [[đảo Graham, Queen Charlotte|đảo Graham]] ("chuck" là thuật ngữ [[Chinook Jargon]] để chỉ nước, và nó có thể có nghĩa là lạch hay hồ). Trong khi đã từng có thời, vào khoảng thập niên 1900, nó được chuyên chở tới [[Victoria, British Columbia|Victoria]] để sản xuất, thì ngày nay [[người Haida]] có sự độc quyền trong việc sử dụng argillit. Những tác phẩm nghệ thuật này có chất lượng cao và được đánh giá cao trên thế giới kể từ khi người Haida bắt đầu chạm khắc nó để bán cho các thủy thủ vào khoảng năm 1800, và ngày nay, những thợ khắc người Haida hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống này, với thiết kế và các kỹ năng đáng kinh ngạc.
Các [[Nghệ thuật vùng duyên hải tây bắc Bắc Mỹ|hình chạm khắc Haida]] ở [[quần đảo Queen Charlotte]] dọc theo vùng bờ biển của [[British Columbia]] là các kho báu nghệ thuật đáng chú ý của thổ dân Bắc Mỹ, được tạo ra từ một loại argilit hạt mịn màu đen và cứng, đôi khi được gọi là "[[đá bản]] đen", chỉ có tại mỏ đá trên [[núi Slatechuck]] ở khu vực thượng nguồn [[lạch Slatechuck]], gần thị trấn [[Skidegate, British Columbia|Skidegate]] trên [[đảo Graham, Queen Charlotte|đảo Graham]] ("chuck" là thuật ngữ [[Chinook Jargon]] để chỉ nước, và nó có thể có nghĩa là lạch hay hồ). Trong khi đã từng có thời, vào khoảng thập niên 1900, nó được chuyên chở tới [[Victoria, British Columbia|Victoria]] để sản xuất, thì ngày nay [[người Haida]] có sự độc quyền trong việc sử dụng argillit. Những tác phẩm nghệ thuật này có chất lượng cao và được đánh giá cao trên thế giới kể từ khi người Haida bắt đầu chạm khắc nó để bán cho các thủy thủ vào khoảng năm 1800, và ngày nay, những thợ khắc người Haida hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống này, với thiết kế và các kỹ năng đáng kinh ngạc.

Phiên bản lúc 16:14, ngày 24 tháng 3 năm 2013

Một bộ sưu tập các miếng khảm từ argillit màu xanh Thổ và da cam của người Pueblo cổ đại (Anasazi) từ hẻm núi Chaco (niên đại khoảng 1020–1140).

Sét kết hay argillit (acgilit), từ tiếng Hy Lạp: árgillos nghĩa là [đất] sét; líthos nghĩa là đá, là đá trầm tích hạt mịn, bao gồm chủ yếu là các hạt sét đã chai cứng. Các dạng argillit về cơ bản là bùn hay bùn cửa biển bị hóa đá. Chúng chứa các lượng hạt với kích thước cỡ đất bùn khác nhau. Nó có thể coi là dạng trung gian giữa sét còn nặn được với đá phiến sét đã phân thành phiến mỏng. Khác với sét, sét kết có độ cứng cao hơn và không có khả năng thấm nước.

Theo thành phần hóa học và khoáng vật học, argillit rất giống với đất sét, nhưng khác ở chỗ có độ cứng lớn hơn và không có khả năng bị mềm nhũn ra trong nước. Hợp thành về cơ bản từ các khoáng vật sét kiểu mica nước (thủy mica), montmorillonitclorit với hỗn hợp các hạt thạch anh, mi ca, fenspat. Tương tự như đất sét, argillit tạo thành hoặc là các vỉa đồ sộ, hoặc là các biến thể nhiều thớ mỏng. Argillit - một dạng đá trầm tích điển hình, đặc trưng cho các khu vực uốn nếp địa máng cũng như cho các tầng trầm tích bị nhấn chìm sâu của các nền đá.

Các loại argillit biến dần thành đá phiến sét khi quá trình hình thành các lớp có khả năng tách bóc được, đặc trưng cho đá phiến sét, được hình thành và phát triển. Tên gọi khác cho các dạng argillit hóa đá kém hơn là đá bùn (nê nham). Các loại đá này, mặc dù biến thiên về thành phần hợp thành, nhưng thông thường có hàm lượng nhômsilica (điôxít silic) khá cao với các cation kiềmkiềm thổ biến thiên. Thuật ngữ pelit thông thường được áp dụng cho các loại đátrầm tích này. Sự biến chất của argillit tạo ra đá bản, đá thiên mai (phyllit), và đá phiến pelit.

Các hình chạm khắc Haidaquần đảo Queen Charlotte dọc theo vùng bờ biển của British Columbia là các kho báu nghệ thuật đáng chú ý của thổ dân Bắc Mỹ, được tạo ra từ một loại argilit hạt mịn màu đen và cứng, đôi khi được gọi là "đá bản đen", chỉ có tại mỏ đá trên núi Slatechuck ở khu vực thượng nguồn lạch Slatechuck, gần thị trấn Skidegate trên đảo Graham ("chuck" là thuật ngữ Chinook Jargon để chỉ nước, và nó có thể có nghĩa là lạch hay hồ). Trong khi đã từng có thời, vào khoảng thập niên 1900, nó được chuyên chở tới Victoria để sản xuất, thì ngày nay người Haida có sự độc quyền trong việc sử dụng argillit. Những tác phẩm nghệ thuật này có chất lượng cao và được đánh giá cao trên thế giới kể từ khi người Haida bắt đầu chạm khắc nó để bán cho các thủy thủ vào khoảng năm 1800, và ngày nay, những thợ khắc người Haida hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống này, với thiết kế và các kỹ năng đáng kinh ngạc.

Tham khảo

Liên kết ngoài