Đế quốc Ghana

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ghana Empire
k. mid 100s–k. early 1200s
The Ghana Empire at its greatest extent
The Ghana Empire at its greatest extent
Thủ đôKoumbi Saleh
Ngôn ngữ thông dụngSoninke, Malinke, Mande
Tôn giáo chính
African traditional religion, Islam
Chính trị
Chính phủKingdom
Ghana 
• 700
Kaya Magan Cissé
• 790s
Majan Dyabe Cisse
• 1040–1062
Ghana Bassi
• 1203–1235
Soumaba Cisse
Lịch sử
Thời kỳ2nd century-11th century
• Thành lập
k. mid 100s
• Conquered by Sosso/Submitted to the Mali Empire
k. early 1200s
Địa lý
Diện tích 
• 1067 est.
1.600 km2
(618 mi2)
Tiền thân
Kế tục
Djenné-Djenno
Mali Empire
Hiện nay là một phần của


Đế quốc Ghana (khoảng năm 300 đến khoảng năm 1100), tên đúng gọi là Wagadou (Ghana là tên lãnh đạo cai trị của đế quốc này), là một đế chế Tây Phi nằm trong khu vực ngày nay là đông nam Mauritania và Tây Mali. Các xã hội phức tạp dựa trên kinh doanh muối vàng xuyên Sahara đã tồn tại trong khu vực từ thời cổ đại,[1] nhưng việc đưa lạc đà đến miền tây Sahara vào thế kỷ thứ 3, đã mở đường cho những thay đổi lớn trong khu vực mà sau này trở thành Đế quốc Ghana. Vào thời điểm Hồi giáo chinh phục Bắc Phi vào thế kỷ thứ 7, lạc đà đã thay đổi các tuyến thương mại cổ xưa, bất thường hơn thành một mạng lưới thương mại chạy từ Maroc đến sông Niger. Đế chế Ghana đã trở nên giàu có từ kinh doanh thương mại vàng và muối xuyên Sahara được gia tăng này, cho phép các trung tâm đô thị lớn hơn phát triển. Giao thông tiếp tục khuyến khích việc mở rộng lãnh thổ để giành quyền kiểm soát các tuyến thương mại khác nhau.

Thời điểm triều đại cầm quyền của Ghana bắt đầu vẫn chưa chắc chắn. Nó được đề cập lần đầu tiên trong các bản ghi bằng văn bản của Muḥammad ibn Mūsā al-Khwārizmī vào năm 831.[2] Vào thế kỷ 11, học giả Cordoban Al-Bakri đã đi đến vùng này và đưa ra một mô tả chi tiết về vương quốc.

Khi đế chế này suy tàn, cuối cùng nó đã trở thành một chư hầu của Đế chế Mali đang trỗi dậy vào một thời điểm nào đó trong thế kỷ 13. Vào năm 1956, Gold Coast trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Phi hạ Sahara giành được độc lập khỏi ách thống trị của thực dân, quốc gia mới đã đổi tên thành Ghana để vinh danh đế chế lâu đời này.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Burr, J. Millard and Robert O. Collins, Darfur: The Long Road to Disaster, Markus Wiener Publishers: Princeton, 2006, ISBN 1-55876-405-4, pp. 6–7.
  2. ^ al-Kuwarizmi in Levtzion and Hopkins, Corpus, p. 7.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Conrad, David C.; Fisher, Humphrey J. (1982), “The conquest that never was: Ghana and the Almoravids, 1076. I. The external Arabic sources”, History in Africa, 9: 21–59, JSTOR 3171598.
  • Conrad, David C.; Fisher, Humphrey J. (1983), “The conquest that never was: Ghana and the Almoravids, 1076. II. The local oral sources”, History in Africa, 10: 53–78, JSTOR 3171690.
  • Cornevin, Robert (1965), “Ghana”, Encyclopaedia of Islam Volume 2 (ấn bản 2), Leiden: Brill, tr. 1001–2, ISBN 978-90-04-07026-4.
  • Cuoq, Joseph M., translator and editor (1975), Recueil des sources arabes concernant l'Afrique occidentale du VIIIe au XVIe siècle (Bilād al-Sūdān) (bằng tiếng Pháp), Paris: Éditions du Centre National de la Recherche Scientifique. Reprinted in 1985 with corrections and additional texts, ISBN 2-222-01718-1. Similar to Levtzion and Hopkins, 1981 & 2000.
  • Masonen, Pekka (2000), The Negroland revisited: Discovery and invention of the Sudanese middle ages, Helsinki: Finnish Academy of Science and Letters, tr. 519–23, ISBN 978-951-41-0886-0.
  • Mauny, Raymond (1971), “The Western Sudan”, trong Shinnie, P.L. (biên tập), The African Iron age, Oxford: Oxford University Press, tr. 66–87, ISBN 978-0-19-813158-8.
  • Monteil, Charles (1954), “La légende du Ouagadou et l'origine des Soninke”, Mélanges Ethnologiques, Dakar: Mémoire de l'Institute Français d'Afrique Noire 23, tr. 359–408.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]