Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa khắc kỷ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
'''Chủ nghĩa khắc kỷ''' (chủ nghĩa Stoic, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός) là một trường phái [[triết học Hy Lạp]] cổ đại do [[Zeno thành Citium]] sáng lập ra tại [[Athena|Athen]] vào đầu thế kỷ thứ 3 TCN. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về [[đạo đức]] con người, thứ được tạo ra bằng [[logic]] và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới. Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới [[eudaimonia]] (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc, đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị. <ref name="Stoicism">[http://plato.stanford.edu/entries/stoicism/ Stoicism], Stanford Encyclopedia of Philosophy.</ref>
'''Chủ nghĩa khắc kỷ''' (chủ nghĩa Stoic, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός) là một trường phái [[triết học Hy Lạp]] cổ đại do [[Zeno thành Citium]] sáng lập ra tại [[Athena|Athen]] vào đầu thế kỷ thứ 3 TCN. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về [[đạo đức]] con người, thứ được tạo ra bằng [[logic]] và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới. Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới [[eudaimonia]] (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc, đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị. <ref name="Stoicism">[http://plato.stanford.edu/entries/stoicism/ Stoicism], Stanford Encyclopedia of Philosophy.</ref>


Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tốt đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (''[[adiaphora]]''), nhưng chúng có giá trị là "điều quan trọng để đức hạnh hành động". Bên cạnh [[đạo đức Aristoteles]], những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên nền triết học về đạo đức của phương Tây.<ref>Sharpe, Matthew. "[http://dro.deakin.edu.au/eserv/DU:30059463/sharpe-stoicvirtue-2013.pdf Stoic Virtue Ethics]." ''Handbook of Virtue Ethics'', 2013, 28–41.</ref> Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí (gọi là ''[[prohairesis]]'') sao cho "hòa hợp với tự nhiên [[tự nhiên (triết học)|tự nhiên]]". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời họ nói, mà là thông qua cách họ cư xử.<ref>John Sellars. ''Stoicism'', 2006, p. 32.</ref> Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.
Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tốt đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (''[[adiaphora]]''), nhưng chúng có giá trị là "điều quan trọng để đức hạnh hành động". Bên cạnh [[đạo đức Aristoteles]], những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên [[Luân luận]] của phương Tây.<ref>Sharpe, Matthew. "[http://dro.deakin.edu.au/eserv/DU:30059463/sharpe-stoicvirtue-2013.pdf Stoic Virtue Ethics]." ''Handbook of Virtue Ethics'', 2013, 28–41.</ref> Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí (gọi là ''[[prohairesis]]'') sao cho "hòa hợp với tự nhiên [[tự nhiên (triết học)|tự nhiên]]". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời họ nói, mà là thông qua cách họ cư xử.<ref>John Sellars. ''Stoicism'', 2006, p. 32.</ref> Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.


Nhiều con người khắc kỷ, như [[Seneca]] và [[Epictecus]], nhấn mạnh rằng, bởi "có đức hạnh là đã đủ hạnh phúc", nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước những bất hạnh. Niềm tin này có ý nghĩa tương tự với cụm từ "bình tĩnh khắc kỷ", dù vậy thì cụm từ này không bao hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thực sự được tự do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.<ref name="Stoicism"/>
Nhiều con người khắc kỷ, như [[Seneca]] và [[Epictecus]], nhấn mạnh rằng, bởi "có đức hạnh là đã đủ hạnh phúc", nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước những bất hạnh. Niềm tin này có ý nghĩa tương tự với cụm từ "bình tĩnh khắc kỷ", dù vậy thì cụm từ này không bao hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thực sự được tự do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.<ref name="Stoicism"/>
Dòng 12: Dòng 12:


==Nguồn gốc tên gọi==
==Nguồn gốc tên gọi==
Tên tiếng Anh của chủ nghĩa khắc kỷ là Stoicism, có nguồn gốc ban đầu là ‘Zenonism’, tức là được đặt theo tên của người sáng lập, [[Zeno thành Citium]]. Tuy nhiên, cái tên này dần dần bị quên lãng, nhiều khả năng là do những môn đồ Stoic sau này không cho rằng Zeno là một người đủ thông tuệ để được đặt tên cho cả một trường phái, và cũng nhằm hạn chế khả năng chủ nghĩa triết học này đi chệch hướng, trở thành một sự sùng bái tính cách.<ref name=":1">{{Cite book|title=Stoicism and the Art of Happiness|last=Robertson|first=Donald|publisher=John Murray|year=2018|isbn=|location=Great Britain|pages=}}</ref>
Sở dĩ chủ nghĩa khắc kỷ có tên như vậy là bởi những ai đi theo chủ nghĩa này thường đàm đạo tại [[Stoa]]. Theo [[tiếng Hy Lạp]], "Stoa" có nghĩa là một [[gian phòng]] sặc sỡ được trang hoàng bằng nhiều [[hình vẽ]] rối rắm và cầu kỳ.<ref>[[Lịch sử triết học phương Tây]], [[Nguyễn Tiến Dũng]], [[Nhà xuất bản Khoa học xã hội]], xuất bản năm [[2015]], trang 140</ref>

Cái tên 'Stoicism' xuất phát từ [[Stoa Poikile]] ([[Ancient Greek]]: ἡ ποικίλη στοά), hay ‘Dãy Cột Sơn’, một dãy cột lớn được trang hoàng bằng những hình vẽ tái hiện khung cảnh thần thoại và lịch sử, nằm ở phía bắc [[Agora Cổ đại xứ Athens|Agora]], [[Athens]], nơi Zeno và các môn đồ của ông tụ họp để bàn luận về những ý tưởng.<ref name="etymologymerriam">{{Cite web | url=https://www.merriam-webster.com/dictionary/stoic | title=Definition of STOIC}}</ref><ref name="Williamson2015">{{cite book|last=Williamson|first=D.|title=Kant's Theory of Emotion: Emotional Universalism|url=https://books.google.com/books?id=62WCDAAAQBAJ&pg=PA17|date=1 April 2015|publisher=Palgrave Macmillan US|isbn=978-1-137-49810-6|page=17}}</ref> Khi Zeno mới bắt đầu giảng dạy, ông ta không thể chi trả cho một tòa nhà giống như [[Học viện Plato|Học viên]] của Plato hay [[Lyceum (cổ đại)|mảnh vườn Lyceum]] của Aristotle, vậy nên ông và những môn đệ đã tụ tập tại khu vực bóng râm của Stoa Poikile giữa khu chợ, nơi bất cứ ai cũng có thể lắng nghe và tham gia tranh luận.<ref>{{Cite book|title=The Spiritual Teachings of Marcus Aurelius|last=Forstater|first=Mark|publisher=Hodder & Stoughton|year=2000|isbn=|location=Great Britain|pages=37}}</ref>


==Giai đoạn==
==Giai đoạn==

Phiên bản lúc 10:29, ngày 21 tháng 11 năm 2019

Zeno thành Citium, người sáng lập Chủ nghĩa Khắc kỷ (Stoicism), tượng nằm trong bộ sưu tập Farnese, Naples – Ảnh chụp bởi Paolo Monti, 1969.

Chủ nghĩa khắc kỷ (chủ nghĩa Stoic, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός) là một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại do Zeno thành Citium sáng lập ra tại Athen vào đầu thế kỷ thứ 3 TCN. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về đạo đức con người, thứ được tạo ra bằng logic và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới. Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc, đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị. [1]

Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tốt đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (adiaphora), nhưng chúng có giá trị là "điều quan trọng để đức hạnh hành động". Bên cạnh đạo đức Aristoteles, những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên Luân lý luận của phương Tây.[2] Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí (gọi là prohairesis) sao cho "hòa hợp với tự nhiên tự nhiên". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời họ nói, mà là thông qua cách họ cư xử.[3] Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.

Nhiều con người khắc kỷ, như SenecaEpictecus, nhấn mạnh rằng, bởi "có đức hạnh là đã đủ hạnh phúc", nên một nhà hiền triết sẽ trở nên vô cùng kiên cường về mặt cảm xúc trước những bất hạnh. Niềm tin này có ý nghĩa tương tự với cụm từ "bình tĩnh khắc kỷ", dù vậy thì cụm từ này không bao hàm quan điểm đạo đức cơ bản của khắc kỷ cho rằng chỉ có một nhà hiền triết mới thực sự được tự do, và tất cả các suy đồi đạo đức đều xấu xa như nhau.[1]

Từ khi hình thành, các học thuyết khắc kỷ đã dần trở nên rất phổ biến trong xã hội Hy LạpLa Mã cho đến thế kỷ thứ 3 SCN, một trong số những người nổi tiếng nhất theo trường phái này vào lúc đó là hoàng đế Marcus Aurelius. Tuy nhiên, đến năm 529 sau CN, tất cả các trường phái triết học bị đóng cửa theo lệnh của hoàng đế Justinian I, người cho rằng chúng mang đặc tính của ngoại giáo, đi ngược với niềm tin Kitô giáo - quốc giáo của Hy Lạp từ thế kỷ 4 SCN.[4][5] Kể từ đó, chủ nghĩa khắc kỷ không còn xuất hiện nhiều nhưng sau đó cũng có một số giai đoạn phát triển trở lại, đáng chú ý nhất là trong thời kỳ Phục hưng (Neostoicism) và trong kỷ nguyên đương đại (Khắc kỷ hiện đại).[6]

Nguồn gốc tên gọi

Tên tiếng Anh của chủ nghĩa khắc kỷ là Stoicism, có nguồn gốc ban đầu là ‘Zenonism’, tức là được đặt theo tên của người sáng lập, Zeno thành Citium. Tuy nhiên, cái tên này dần dần bị quên lãng, nhiều khả năng là do những môn đồ Stoic sau này không cho rằng Zeno là một người đủ thông tuệ để được đặt tên cho cả một trường phái, và cũng nhằm hạn chế khả năng chủ nghĩa triết học này đi chệch hướng, trở thành một sự sùng bái tính cách.[7]

Cái tên 'Stoicism' xuất phát từ Stoa Poikile (Ancient Greek: ἡ ποικίλη στοά), hay ‘Dãy Cột Sơn’, một dãy cột lớn được trang hoàng bằng những hình vẽ tái hiện khung cảnh thần thoại và lịch sử, nằm ở phía bắc Agora, Athens, nơi Zeno và các môn đồ của ông tụ họp để bàn luận về những ý tưởng.[8][9] Khi Zeno mới bắt đầu giảng dạy, ông ta không thể chi trả cho một tòa nhà giống như Học viên của Plato hay mảnh vườn Lyceum của Aristotle, vậy nên ông và những môn đệ đã tụ tập tại khu vực bóng râm của Stoa Poikile giữa khu chợ, nơi bất cứ ai cũng có thể lắng nghe và tham gia tranh luận.[10]

Giai đoạn

Chủ nghĩa khắc kỷ tồn tại từ đầu thế kỷ 3 TCN đến cuối thế kỷ II TCN và trải qua ba giai đoạn:[11]

Những tư tưởng đáng chú ý

Suy nghĩ chung về triết học

Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng triết học là một môn học tư duy để giúp con người trở nên thông thái, làm chủ và biết cách ứng xử trước những khó khăn của cuộc đời. Vì vậy, triết học không chỉ là một khoa học mà còn là một phong cách sống, một nghệ thuật sống của con người trong cộng đồng xã hội. Và cũng theo những con người nói trên, đối tượng của triết học là phải bao quát nhiều lĩnh vực, bởi vì sự thông thái do triết học mang lại không hạn đinh, bó hẹp ở trong một giới hạn cụ thể nào đó. Quan niệm này vốn phổ biến trong một thời gian rất dài. Và cũng theo họ, triết học gồm 3 lĩnh vực: vật lý học, đạo đức họclogic học.[11] Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Zeno xứ Citium đã có lời ví von như sau:

[12]

Ở giữa ở đây là lòng trắng của quả trứng.

Logic học[11]

Những nhà triết học khắc kỷ cho rằng logic học là khoa học sử dụng ngôn từ. Nhờ ngôn từ chúng ta trở thành người hùng biện, dẫn dắt, làm chủ được tư tưởng của mình trong mọi tình huống. Vì vậy, logic học được xem là khoa học công cụ.

Vật lý học[13]

Chủ nghĩa khắc kỷ nhìn nhận rằng vật lý học là học thuyết bàn về giới tự nhiên, về nguồn gốc của các sự vật mà chúng ta hay gặp mỗi ngày. Karl Marx đã đánh giá rằng cơ sở cho tư tưởng vật lý học của những người này là của Heracltus và họ dựa vào đó để phát triển.

Cũng giống như những người trước đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng dùng tư tưởng duy vật để giải thích thế giới. Họ cho rằng thế giới được cấu thành từ các yếu tố đất, nước, lửa, không khí. Họ cũng khẳng định các vật cảm tính là có thực tồn và là nền tảng của vũ trụ. Đối với họ, cái chung không phải là cái vô hình không thể cảm nhận được mà cái chung tồn tại trong cái riêng. Thêm vào đó, chủ nghĩa khắc kỷ cũng cho thấy suy nghĩ biện chứng khi cho rằng thế giới tồn tại trong sự vân động không ngừng của các vật thể. Có thể nói các nhà triết học này là những nhà duy vật biện chứng đầu tiên trong lịch sử tư tưởng thế giới. Marx đánh giá cao về điều này:

Tuy nhiên, chủ nghĩa khắc kỷ lại không kiên trì theo tư tưởng này khi sau đó họ cho rằng mọi vật phát triển theo các trình tự do Thượng đế sắp đặt. Chính vì thế, học thuyết này có chút gì đó là của mục đích luận.

Đạo đức học[14]

Chủ nghĩa khắc kỷ đã đưa ra ý kiến rằng tri thức là điều kiện cần của lý tưởng đạo đức, còn điều kiện đủ là sự tĩnh tâm và bình thản của tâm hồn. Họ chủ trương sống khắc khổ, điều này đã tạo ra chủ nghĩa khổ hạnh trong đạo Cơ Đốc sau này.

Nhận thức luận

Linh hồn con người[12]

Chủ nghĩa khắc kỷ nghiên cứu nhận thức luận theo lập trường duy cảm duy vật. Theo những nhà triết học này, linh hồn được cấu tạo từ 8 bộ phân: năm giác quan thính giác, thị giác, khứu giác, vị giácxúc giác, giọng nói, bộ phận tái tạo và bộ phận điều khiển. Linh hồn của con người như tờ giấy trắng để in dấu sự tác động của thế giới bên ngoài. Biểu tượng của sự vật là do chính nó tạo nên.

Nhận thức cảm tínhnhận thức lý tính[12]

Chủ nghĩa khắc kỷ đã tìm thấy mối liên hệ giữa hai đối tượng này. Zeno xứ Citium đã viết rằng:

Suy nghĩ về khái niệm[12]

Chủ nghĩa khắc kỷ có suy nghĩ rất hay về khái niệm. Zeno xứ Citium cho rằng "các khái niệm không phải là kết quả thỏa thuận giữa mọi người về việc đặt tên cho sự vật mà ngược lại bản thân các khái niệm được quy định bởi các vật và bản chất của các vật."

Các nhà triết học tiêu biểu

Chú thích

  1. ^ a b Stoicism, Stanford Encyclopedia of Philosophy.
  2. ^ Sharpe, Matthew. "Stoic Virtue Ethics." Handbook of Virtue Ethics, 2013, 28–41.
  3. ^ John Sellars. Stoicism, 2006, p. 32.
  4. ^ Agathias. Histories, 2.31.
  5. ^ David, Sedley (1998). “Ancient philosophy”. Trong E. Craig (biên tập). Routledge Encyclopedia of Philosophy. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008. Chú thích có tham số trống không rõ: |coauthors= (trợ giúp)
  6. ^ Becker, Lawrence C. (2001). A New Stoicism. Princeton: Princeton University Press. ISBN 9781400822447.
  7. ^ Robertson, Donald (2018). Stoicism and the Art of Happiness. Great Britain: John Murray.
  8. ^ “Definition of STOIC”.
  9. ^ Williamson, D. (1 tháng 4 năm 2015). Kant's Theory of Emotion: Emotional Universalism. Palgrave Macmillan US. tr. 17. ISBN 978-1-137-49810-6.
  10. ^ Forstater, Mark (2000). The Spiritual Teachings of Marcus Aurelius. Great Britain: Hodder & Stoughton. tr. 37.
  11. ^ a b c Lịch sử triết học phương Tây, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2015, trang 141
  12. ^ a b c d Lịch sử triết học phương Tây, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2015, trang 143
  13. ^ Lịch sử triết học phương Tây, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2015, trang 141, 142
  14. ^ Lịch sử triết học phương Tây, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 2015, trang 142