Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tâm hồn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã khóa “Tâm hồn” ([Sửa đổi=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (hết hạn 15:31, ngày 17 tháng 6 năm 2020 (UTC)) [Di chuyển=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (hết hạn 15:31, ngày 17 tháng 6 năm 2020 (UTC)))
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{about|quan niệm của tôn giáo, triết học và thần thoại|quan niệm tâm linh|Linh hồn|khía cạnh trí tuệ|Tâm trí}}
{{about|quan niệm của tôn giáo, triết học và thần thoại|quan niệm tâm linh|Linh hồn|khía cạnh trí tuệ|Tâm trí}}
{{Otheruses|Tinh thần}}
{{Otheruses|Tinh thần}}
'''Tâm hồn''', hay '''soul''', trong nhiều truyền thống [[tôn giáo]], [[triết học]] và [[thần thoại]], là [[bản chất]] [[hợp nhất]] (incorporeal essence) của một [[sinh vật]].<ref>"soul."Encyclopædia Britannica. 2010. Encyclopædia Britannica 2006 CD. 13 July 2010.</ref> Tâm hồn hay [[wikt:psyche|psyche]] ([[tiếng Hy Lạp cổ đại]]: ψυχή psykhḗ, của ψύχεψύχεννννýý, "thở") bao gồm các khả năng tinh thần của một sinh vật: lý trí, tính cách, cảm giác, ý thức, trí nhớ, nhận thức, suy nghĩ, v.v. Tùy thuộc vào hệ thống triết học, một tâm hồn có thể là phàm nhân hoặc [[bất tử]].<ref>{{cite web|title=Soul (noun) |url=http://www.oed.com/view/Entry/185083|website=Oxford English Dictionary (OED) online edition|publisher=Oxford English Dictionary (OED)|accessdate=1 December 2016}}</ref> Trong Judeo-Kitô giáo, chỉ có con người có tâm hồn bất tử (mặc dù sự bất tử bị tranh chấp trong Do Thái giáo và khái niệm về sự bất tử có thể đã bị ảnh hưởng bởi Plato).<ref>{{cite web|url=http://www.jewishencyclopedia.com/articles/8092-immortality-of-the-soul|title=Immortality of the Soul|website=www.jewishencyclopedia.com|access-date=2016-12-14|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20161220130344/http://www.jewishencyclopedia.com/articles/8092-immortality-of-the-soul|archivedate=20 December 2016|df=dmy-all}}</ref> Chẳng hạn, nhà [[thần học]] [[Công giáo]] [[Thomas Aquinas]] gán "tâm hồn" (''[[wikt:anima|anima]]'') cho tất cả các sinh vật nhưng lập luận rằng chỉ có tâm hồn con người là bất tử.<ref>Peter Eardley and Carl Still, ''Aquinas: A Guide for the Perplexed'' (London: Continuum, 2010), pp. 34–35</ref>
'''Tâm hồn''', hay '''linh''' '''hồn''', trong nhiều truyền thống [[tôn giáo]], [[triết học]] và [[thần thoại]], là [[bản chất]] [[hợp nhất]] (incorporeal essence) của một [[sinh vật]].<ref>"soul."Encyclopædia Britannica. 2010. Encyclopædia Britannica 2006 CD. 13 July 2010.</ref> Tâm hồn hay [[wikt:psyche|psyche]] ([[tiếng Hy Lạp cổ đại]]: ψυχή psykhḗ, của ψύχεψύχεννννýý, "thở") bao gồm các khả năng tinh thần của một sinh vật: lý trí, tính cách, cảm giác, ý thức, trí nhớ, nhận thức, suy nghĩ, v.v. Tùy thuộc vào hệ thống triết học, một tâm hồn có thể là phàm nhân hoặc [[bất tử]].<ref>{{cite web|title=Soul (noun) |url=http://www.oed.com/view/Entry/185083|website=Oxford English Dictionary (OED) online edition|publisher=Oxford English Dictionary (OED)|accessdate=1 December 2016}}</ref> Trong Judeo-Kitô giáo, chỉ có con người có tâm hồn bất tử (mặc dù sự bất tử bị tranh chấp trong Do Thái giáo và khái niệm về sự bất tử có thể đã bị ảnh hưởng bởi Plato).<ref>{{cite web|url=http://www.jewishencyclopedia.com/articles/8092-immortality-of-the-soul|title=Immortality of the Soul|website=www.jewishencyclopedia.com|access-date=2016-12-14|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20161220130344/http://www.jewishencyclopedia.com/articles/8092-immortality-of-the-soul|archivedate=20 December 2016|df=dmy-all}}</ref> Chẳng hạn, nhà [[thần học]] [[Công giáo]] [[Thomas Aquinas]] gán "tâm hồn" (''[[wikt:anima|anima]]'') cho tất cả các sinh vật nhưng lập luận rằng chỉ có tâm hồn con người là bất tử.<ref>Peter Eardley and Carl Still, ''Aquinas: A Guide for the Perplexed'' (London: Continuum, 2010), pp. 34–35</ref>


Các tôn giáo, khác đáng chú ý nhất là [[Ấn Độ giáo]] và [[Kỳ Na giáo]] (Jain), cho rằng tất cả các sinh vật sống từ vi khuẩn nhỏ nhất đến lớn nhất của động vật có vú là chính các tâm hồn (Atman, jiva) và có đại diện vật lý của chúng (cơ thể) trên thế giới. [[Bản thân]] (self) thực tế là tâm hồn, trong khi cơ thể chỉ là một cơ chế để trải nghiệm nghiệp chướng của cuộc sống đó. Do đó, ví dụ nếu chúng ta nhìn thấy một con hổ thì có một bản sắc tự ý thức trú ngụ trong đó (tâm hồn) và một đại diện vật lý (toàn bộ cơ thể của con hổ, có thể quan sát được) trên thế giới.
Các tôn giáo, khác đáng chú ý nhất là [[Ấn Độ giáo]] và [[Kỳ Na giáo]] (Jain), cho rằng tất cả các sinh vật sống từ vi khuẩn nhỏ nhất đến lớn nhất của động vật có vú là chính các tâm hồn (Atman, jiva) và có đại diện vật lý của chúng (cơ thể) trên thế giới. [[Bản thân]] (self) thực tế là tâm hồn, trong khi cơ thể chỉ là một cơ chế để trải nghiệm nghiệp chướng của cuộc sống đó. Do đó, ví dụ nếu chúng ta nhìn thấy một con hổ thì có một bản sắc tự ý thức trú ngụ trong đó (tâm hồn) và một đại diện vật lý (toàn bộ cơ thể của con hổ, có thể quan sát được) trên thế giới.
Dòng 10: Dòng 10:


== Phân biệt với linh hồn ==
== Phân biệt với linh hồn ==
''Soul'' thường có nghĩa là năng lượng sống bên trong mang tính gắn kết (attachment) với phần vật chất (matter) cơ thể sống trong khi ''spirit'' thường có nghĩa là năng lượng chuyển động (movement) khi không có phần cơ thể như ma, thiên thần hoặc ác quỷ.<ref>{{chú thích web|last1=Kaine|first1=Kristina|title=Is There a Difference Between the Spirit and the Soul?|url=https://www.huffpost.com/entry/is-there-a-difference-bet_b_8947542|website=HuffPost|accessdate=2019-09-13}}</ref>
''Hồn (soul) t''hường có nghĩa là năng lượng sống bên trong mang tính gắn kết (attachment) với phần vật chất (matter) cơ thể sống trong khi ''spirit'' thường có nghĩa là năng lượng chuyển động khi không có phần cơ thể như ma, thiên thần hoặc ác quỷ.<ref>{{chú thích web|last1=Kaine|first1=Kristina|title=Is There a Difference Between the Spirit and the Soul?|url=https://www.huffpost.com/entry/is-there-a-difference-bet_b_8947542|website=HuffPost|accessdate=2019-09-13}}</ref>

== Quan điểm tôn giáo ==

=== Cận Đông cổ đại ===
[[Tập tin:Souls_of_Pe_and_Nekhen_towing_at_Ramses'_Temple_in_Abydos_c.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Souls_of_Pe_and_Nekhen_towing_at_Ramses'_Temple_in_Abydos_c.jpg|trái|nhỏ|H[[Linh hồn của Pe và Nekhen|ồn của Pe và Nekhen]] kéo theo cuộc mặc cả của hoàng gia trên một bức phù điêu của đền thờ [[Ramesses II]] ở Abydos.]]
Trong [[tôn giáo Ai Cập cổ đại]], một cá nhân được cho là được tạo thành từ nhiều yếu tố khác nhau, gồm một số yếu tố vật chất và một số tâm linh. Những ý tưởng tương tự được tìm thấy trong tôn giáo Assyrian và Babylon cổ đại. [[Kuttamuwa]], một quan chức hoàng gia thế kỷ thứ 8 TCN từ [[ Sam'al|Sam'al]], đã ra lệnh cho một [[Bia (kiến trúc)|tấm bia]] khắc được dựng lên sau cái chết của ông. Dòng chữ yêu cầu những người thương tiếc Kuttamuwa kỷ niệm cuộc sống và [[thế giới bên kia]] của ông bằng những bữa tiệc "vì hồn của tôi ở trong tấm bia này". Nó là một trong những tài liệu tham khảo sớm nhất về một linh hồn như một thực thể riêng biệt với cơ thể. {{Convert|800|lb}} tấm [[bazan]] cao {{Convert|3|ft|abbr=on}} và rộng {{Convert|2|ft|abbr=on}} . Nó đã được phát hiện trong mùa khai quật thứ ba bởi Cuộc thám hiểm Neubauer của [[ Đại học Chicago Oriental|Viện Phương Đông]] ở Chicago, Illinois.

=== Bahá'í ===
[[Bahá'í giáo]] khẳng định rằng "linh hồn là dấu hiệu của Thiên Chúa, một viên ngọc quý trên trời mà thực tế mà những người đàn ông thông thái nhất đã không nắm bắt được, và bí ẩn, không có tâm trí nào, có thể hy vọng làm sáng tỏ". <ref>{{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/gleaningsfromwri0000baha_w8j0/page/158|title=Gleanings from the Writings of Bahá'u'lláh|last=Bahá'u'lláh|publisher=Bahá'í Publishing Trust|year=1976|isbn=978-0-87743-187-9|location=Wilmette, Illinois|pages=[https://archive.org/details/gleaningsfromwri0000baha_w8j0/page/158 158–63]|author-link=Bahá'u'lláh|access-date=2016-02-23}}</ref> [[Bahá'u'lláh]] tuyên bố rằng linh hồn không chỉ tiếp tục sống sau cái chết thể xác của cơ thể con người, mà trên thực tế, là bất tử. <ref>{{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/gleaningsfromwri0000baha_w8j0/page/155|title=Gleanings from the Writings of Bahá'u'lláh|last=Bahá'u'lláh|publisher=Bahá'í Publishing Trust|year=1976|isbn=978-0-87743-187-9|location=Wilmette, Illinois|pages=[https://archive.org/details/gleaningsfromwri0000baha_w8j0/page/155 155–58]|author-link=Bahá'u'lláh|access-date=2016-02-23}}</ref> Thiên đàng có thể được xem một phần là trạng thái gần gũi của linh hồn với Thiên Chúa; và địa ngục như một trạng thái xa xôi từ Thiên Chúa. Mỗi tiểu bang theo sau như một kết quả tự nhiên của những nỗ lực cá nhân, hoặc thiếu nó, để phát triển tâm linh. <ref name="rob1">{{Chú thích sách|url=http://www.peyman.info/cl/Baha%27i/Others/ROB/V1/Contents.html|title=The Revelation of Bahá'u'lláh, Volume 1|last=Taherzadeh, Adib|publisher=George Ronald|year=1976|isbn=978-0-85398-270-8|location=Oxford|author-link=Adib Taherzadeh|access-date=2016-02-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20160303191017/http://www.peyman.info/cl/Baha'i/Others/ROB/V1/Contents.html|archive-date=3 March 2016}}</ref> Bahá'u'lláh đã dạy rằng các cá nhân không có sự tồn tại trước cuộc sống của họ ở đây trên trái đất và sự tiến hóa của linh hồn luôn hướng về Thiên Chúa và tránh xa thế giới vật chất.

=== Phật giáo ===
[[Phật giáo]] thuyết giảng nguyên tắc [[vô thường]], rằng tất cả mọi thứ đều ở trong tình trạng thay đổi liên tục: tất cả đều thay đổi, và không có trạng thái vĩnh viễn tồn tại. <ref>Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), p. 25</ref> <ref>''Sources of Indian Tradition'', vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), pp. 92–93</ref> Điều này áp dụng cho con người nhiều như mọi thứ khác trong vũ trụ. Như vậy, một con người không có bản ngã vĩnh viễn. <ref>Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), pp. 55–57</ref> <ref>''Sources of Indian Tradition'', vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), p. 93</ref> Theo học thuyết về ''[[Vô ngã|anatta]]'' (Pāli; tiếng Phạn: ''anātman'' ) - "vô ngã" hoặc "vô hồn" - những từ "tôi" hay "của tôi" không đề cập đến bất kỳ điều gì cố định. Chúng đơn giản là các thuật ngữ thuận tiện cho phép chúng ta đề cập đến một thực thể luôn thay đổi.

Học thuyết ''anatta'' không phải là một loại chủ nghĩa [[Chủ nghĩa duy vật|duy vật]] . Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của các thực thể "phi vật chất", và nó (ít nhất là theo truyền thống) phân biệt các trạng thái cơ thể với các trạng thái tinh thần. <ref>''Sources of Indian Tradition'', vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), pp. 93–94</ref> Do đó, bản dịch thông thường của ''anatta'' là "vô hồn" <ref>for example, in Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), pp. 51–66</ref> có thể gây nhầm lẫn. Nếu từ "linh hồn" chỉ đơn giản đề cập đến một thành phần kết hợp trong những sinh vật có thể tiếp tục sau khi chết, thì Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của linh hồn. <ref name="Indian Tradition 1958 p. 94">''Sources of Indian Tradition'', vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), p. 94</ref> Thay vào đó, Phật giáo phủ nhận sự tồn tại của một thực thể vĩnh viễn không đổi đằng sau các thành phần thay đổi và kết hợp của một sinh vật. Giống như cơ thể thay đổi từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, nên những suy nghĩ đến và đi, và không có trạng thái vĩnh viễn nào nằm dưới tâm trí trải nghiệm những suy nghĩ này, như trong chủ nghĩa [[ Chủ nghĩa giáo phái|Cartesian]] . Các trạng thái tinh thần ý thức chỉ đơn giản phát sinh và diệt vong mà không có "nhà tư tưởng" đằng sau chúng. <ref>Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), p. 26</ref> Khi cơ thể chết, Phật tử tin rằng các quá trình tinh thần kết hợp tiếp tục và được tái sinh trong một cơ thể mới. <ref name="Indian Tradition 1958 p. 94" /> Bởi vì các quá trình tinh thần liên tục thay đổi, nên sinh vật được tái sinh không hoàn toàn khác biệt, cũng không hoàn toàn giống với, sinh vật đã chết. <ref>Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), p. 34</ref> Tuy nhiên, sinh vật mới ''liên tục tồn tại'' với cái chết - giống như cách "bạn" của khoảnh khắc này liên tục với "bạn" của một khoảnh khắc trước đó, mặc dù thực tế là bạn đang thay đổi liên tục.

Giáo lý Phật giáo cho rằng một quan niệm về một bản ngã vĩnh viễn, vĩnh viễn là một ảo tưởng là một trong những nguyên nhân gây ra xung đột của con người trên các cấp độ tình cảm, xã hội và chính trị. <ref>{{Chú thích sách|title=A Short History of Buddhism|last=Conze|first=Edward|publisher=Oneworld|year=1993|isbn=978-1-85168-066-5|page=14|author-link=Edward Conze}}</ref> <ref>Walpola Rahula, ''What the Buddha Taught'' (NY: Grove, 1962), p. 51</ref> Họ nói thêm rằng một sự hiểu biết về ''anatta'' cung cấp một mô tả chính xác về tình trạng của con người, và sự hiểu biết này cho phép chúng ta bình định những [[ Mong muốn (triết lý)|ham muốn]] trần tục của chúng ta.

Nhiều trường phái Phật giáo có những ý tưởng khác nhau về những gì được tiếp tục sau khi chết. <ref>{{Chú thích web|url=http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-MAG/45144_2.htm|tựa đề=六朝神滅不滅論與佛教輪迴主體之研究|nhà xuất bản=Ccbs.ntu.edu.tw|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120313160542/http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-MAG/45144_2.htm|ngày lưu trữ=13 March 2012|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> Trường phái [[Duy thức tông]] trong Phật giáo [[Đại thừa]] cho biết có ý thức lưu trữ tiếp tục tồn tại sau khi chết. <ref>{{Chú thích web|url=http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-AN/an162621.htm|tựa đề=佛教心理論之發達觀|nhà xuất bản=Ccbs.ntu.edu.tw|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120313160549/http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-AN/an162621.htm|ngày lưu trữ=13 March 2012|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> Trong một số trường phái, đặc biệt là [[Phật giáo Tây Tạng]], quan điểm là có ba tâm trí: tâm trí ''rất tinh tế'', không tan rã trong cái chết; ''tâm trí tinh tế'', tan rã trong cái chết và đó là "tâm trí mơ mộng" hay "tâm trí vô thức"; và ''tâm trí thô thiển'', không tồn tại khi một người đang ''ngủ'' . Do đó, ''tâm trí thô thiển'' thường ít hơn so với tâm trí tinh tế, không tồn tại trong cái chết. Tuy nhiên, ''tâm trí rất tinh tế'' vẫn tiếp tục, và khi nó "bắt kịp", hoặc trùng hợp với các hiện tượng, một lần nữa, một ''tâm trí tinh tế'' mới xuất hiện, với tính cách / giả định / thói quen của riêng nó, và thực thể ''đó'' gặp phải [[Nghiệp (Phật giáo)|nghiệp chướng]] trong sự liên tục của hiện tại.

Thực vật được cho là không có tình cảm - vô tình (無情), <ref>{{Chú thích web|url=http://www.bskk.com/viewthread.php?tid=96608|tựa đề=植物、草木、山石是无情众生吗?有佛性吗?|nhà xuất bản=Bskk.com|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111009012544/http://www.bskk.com/viewthread.php?tid=96608|ngày lưu trữ=9 October 2011|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> nhưng các nhà sư Phật giáo được yêu cầu không chặt hoặc đốt cây, bởi vì một số chúng sinh dựa vào chúng. <ref>{{Chú thích web|url=http://www.awker.com/hongshi/mag/82/82-10.htm|tựa đề=從律典探索佛教對動物的態度(中)|nhà xuất bản=Awker.com|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111121031406/http://www.awker.com/hongshi/mag/82/82-10.htm|ngày lưu trữ=2011-11-21|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> Một số nhà sư Đại thừa cho biết những sinh vật không có tình cảm như thực vật và đá cũng có [[Phật tính]] . <ref>{{Chú thích web|url=http://www.dharma.com.tw/x1chinese/d33sprob/P4-215.htm|tựa đề=無情眾生現今是不具有神識,但具有佛性!|nhà xuất bản=Dharma.com.tw|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111230085532/http://www.dharma.com.tw/x1chinese/d33sprob/P4-215.htm|ngày lưu trữ=30 December 2011|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref>

Một số Phật tử hiện đại, đặc biệt là ở [[Thế giới phương Tây|các nước phương Tây]], từ chối hay ít nhất là có lập trường bất khả tri đối với khái niệm tái sinh. [[ Stephen Batch Bachelor (bất khả tri)|Stephen Batch Bachelor]] thảo luận về điều này trong cuốn sách ''Phật giáo không có niềm tin'' . Những người khác chỉ ra [[Đầu thai|nghiên cứu]] đã được tiến hành tại [[Đại học Virginia]] là bằng chứng cho thấy một số người được tái sinh.

=== Kitô giáo ===
[[Tập tin:SoulCarriedtoHeaven.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:SoulCarriedtoHeaven.jpg|nhỏ|Linh hồn được đưa lên thiên đường bởi [[William-Adolphe Bouguereau|William Bouguereau]]]]
Theo một [[ Cơ đốc giáo|bí truyền Kitô giáo]] thông thường, khi con người chết đi, linh hồn của họ sẽ được [[ Phán quyết đặc biệt|Chúa phán xét]] và quyết tâm lên [[ Thiên đường (Kitô giáo)|Thiên đàng]] hoặc đến Địa [[ Quan điểm của Kitô giáo về Hades|ngục]] chờ ngày [[phục sinh]] . Các Kitô hữu khác hiểu linh hồn là sự sống và tin rằng người chết không có sự sống cho đến [[ Phán quyết chung|sau khi phục sinh]] (chủ nghĩa có [[ Kitô giáo có điều kiện|điều kiện Kitô giáo]] ). Một số Kitô hữu tin rằng linh hồn và thể xác của những người bất chính sẽ bị hủy diệt trong địa ngục thay vì đau khổ vĩnh viễn (sự [[ Sự hủy diệt|hủy diệt]] ). Các tín đồ sẽ được thừa hưởng [[ Đời sống vĩnh cửu (Kitô giáo)|cuộc sống vĩnh cửu]] hoặc trên [[ Thiên đường (Kitô giáo)|Thiên đàng]], hoặc trong [[ Vương quốc của chúa|Vương quốc của Thiên Chúa]] trên trái đất và được hưởng mối tương giao vĩnh cửu với Thiên Chúa.

Mặc dù tất cả các nhánh chính của Kitô giáo - Công giáo, [[Chính thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] [[Chính thống giáo Cổ Đông phương|Đông phương]], [[Chính thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] [[Chính thống giáo Cổ Đông phương|phương Đông]], [[Cảnh giáo|Giáo hội Đông phương]], [[Chủ nghĩa phúc âm|Tin lành]] và [[Tin Lành chính thống]] - đều dạy rằng Jesus Christ đóng vai trò quyết định trong quá trình [[Cứu rỗi trong Kitô giáo|cứu rỗi Kitô giáo]], các chi tiết cụ thể của vai trò đó và phần được đóng bởi cá nhân hoặc theo [[ Giáo hội|các]] nghi lễ và mối quan hệ [[ Giáo hội|giáo hội]], là một vấn đề đa dạng trong giáo huấn chính thức của nhà thờ, suy đoán thần học và thực hành phổ biến. Một số Kitô hữu tin rằng nếu một người không ăn năn tội lỗi của mình và không tin vào Jesus Christ là Chúa và Chúa cứu rỗi, thì người đó sẽ xuống [[ Quan điểm của Kitô giáo về Địa ngục|địa ngục]] và chịu sự [[ Chết tiệt|đày đọa]] vĩnh viễn hoặc chia ly vĩnh viễn với Thiên Chúa. Một số giữ niềm tin rằng các em bé (bao gồm cả người chưa sinh) và những người bị suy giảm nhận thức hoặc tinh thần đã chết sẽ được nhận lên Thiên đàng trên cơ sở ân sủng của Thiên Chúa thông qua sự hy sinh của Giêsu. <ref>{{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/bookofmormand00jose/page/286|title=Doctrine and Covenants|last=Smith|first=Joseph|publisher=The Church of Jesus Christ of Latter-Day Saints|year=1981|isbn=978-1-59297-503-7|location=Salt Lake City, Utah|page=[https://archive.org/details/bookofmormand00jose/page/286 286]}}</ref>

Cũng có niềm tin vào [[ Sự cứu rỗi phổ quát|sự cứu rỗi phổ quát]] .

==== Nguồn gốc của linh hồn ====
[[Tập tin:Michelangelo,_Damned_Soul.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Michelangelo,_Damned_Soul.jpg|trái|nhỏ|''Linh hồn bị nguyền rủa''. Tranh của [[Michelangelo|Michelangelo Buônarroti]] c. 1525]]
"Nguồn gốc của linh hồn" đã cung cấp một câu hỏi bực tức trong Kitô giáo. Các lý thuyết chính được đưa ra bao gồm chủ nghĩa [[ Chủ nghĩa sáng tạo (linh hồn)|sáng tạo linh hồn]], chủ [[ Traindianism|nghĩa truyền thống]] và [[ Tiền tồn tại|tiền tồn tại]] . Theo chủ nghĩa sáng tạo linh hồn, Thiên Chúa tạo ra mỗi linh hồn cá nhân được tạo ra trực tiếp, hoặc tại thời điểm thụ thai hoặc một thời gian sau đó. Theo truyền thống, linh hồn xuất phát từ cha mẹ bởi thế hệ tự nhiên. Theo lý thuyết preexistence, linh hồn tồn tại trước thời điểm thụ thai. Đã có khác nhau suy nghĩ về việc liệu con người [[phôi]] có linh hồn từ lúc thụ thai, hoặc cho dù có một điểm giữa thụ thai và sinh nơi [[Bào thai|thai nhi]] [[ Đảm bảo|có được một linh hồn]], [[ý thức]], và / hoặc [[Nhân vị tính|nhân vị]] . Các quan điểm trong câu hỏi này có thể đóng một vai trò trong các đánh giá về [[ Kitô giáo và phá thai|đạo đức của phá thai]] . <ref>{{Chú thích web|url=http://www.catholiceducation.org/articles/medical_ethics/me0116.htm|tựa đề="Do Embryos Have Souls?", Father Tadeusz Pacholczyk, PhD, Catholic Education Resource Center|nhà xuất bản=Catholiceducation.org|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20110629203818/http://www.catholiceducation.org/articles/medical_ethics/me0116.htm|ngày lưu trữ=29 June 2011|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> <ref>{{Chú thích báo|url=http://www.timesonline.co.uk/tol/comment/columnists/guest_contributors/article3912708.ece|title=Embryos have souls? What nonsense|last=Matthew Syed|date=12 May 2008|work=[[The Times]]|access-date=13 November 2011|archive-url=https://web.archive.org/web/20110918113735/http://www.timesonline.co.uk/tol/comment/columnists/guest_contributors/article3912708.ece|archive-date=18 September 2011|location=UK}}</ref>

==== Ba ngôi của linh hồn ====
[[Augustinô thành Hippo|Augustine]] (354-430), một trong những nhà tư tưởng Kitô giáo đầu tiên có ảnh hưởng nhất của Kitô giáo, đã mô tả linh hồn là "một chất đặc biệt, có lý do, thích nghi để cai trị cơ thể". Một số Kitô hữu tán thành một [[ Trichotomy (triết học)|quan điểm ba ngôi]] của con người, đó là đặc điểm con người như bao gồm một cơ thể ''(soma),'' linh hồn ''(tinh thần),'' và tinh thần ''(pneuma).'' <ref>{{Chú thích web|url=http://www.newadvent.org/cathen/14153a.htm|tựa đề=Soul|ngày=1 July 1912|nhà xuất bản=newadvent.org|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111128201145/http://www.newadvent.org/cathen/14153a.htm|ngày lưu trữ=28 November 2011|ngày truy cập=13 November 2011|trích dẫn=In St. Paul we find a more technical phraseology employed with great consistency. Psyche is now appropriated to the purely natural life; pneuma to the life of supernatural religion, the principle of which is the Holy Spirit, dwelling and operating in the heart. The opposition of flesh and spirit is accentuated afresh (Romans 1:18, etc.). This Pauline system, presented to a world already prepossessed in favour of a quasi-Platonic Dualism, occasioned one of the earliest widespread forms of error among Christian writers – the doctrine of the Trichotomy. According to this, man, perfect man (teleios) consists of three parts: body, soul, spirit (soma, psyche, pneuma).}}</ref> Tuy nhiên, phần lớn các học giả Kinh Thánh hiện đại chỉ ra làm thế nào các khái niệm "tinh thần" và "linh hồn" được sử dụng thay thế cho nhau trong nhiều đoạn Kinh thánh, và do đó giữ cho sự phân đôi: quan điểm rằng mỗi người bao gồm một thể xác và một linh hồn. Phao-lô nói rằng "cuộc chiến cơ thể chống lại" linh hồn, "Vì lời của Đức Chúa Trời đang sống và hoạt động và sắc bén hơn bất kỳ con dao hai lưỡi nào, và đâm xuyên qua sự phân chia linh hồn và tinh thần" (Dt 4:12 NASB) và rằng "Tôi tự chọn cơ thể của mình", để giữ cho nó được kiểm soát.

==== Quan điểm của các trường phái khác nhau ====
[[ Giáo lý Giáo hội Công giáo|Giáo lý]] hiện tại [[ Giáo lý Giáo hội Công giáo|của Giáo hội Công giáo]] định nghĩa linh hồn là "khía cạnh bên trong nhất của con người, có giá trị lớn nhất ở họ, mà trong hình ảnh của Thiên Chúa được mô tả là" linh hồn "biểu thị ''nguyên tắc tâm linh'' nơi con người". <ref>{{Chú thích web|url=https://www.vatican.va/archive/ccc_css/archive/catechism/p1s2c1p6.htm|tựa đề=Catechism of the Catholic Church, paragraph 363|nhà xuất bản=Vatican.va|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111116203545/https://www.vatican.va/archive/ccc_css/archive/catechism/p1s2c1p6.htm|ngày lưu trữ=16 November 2011|ngày truy cập=13 November 2011}}</ref> Tất cả các linh hồn sống và chết sẽ được đánh giá bởi Giêsu khi [[Giêsu tái lâm|ông trở lại Trái Đất]] . Giáo hội Công giáo dạy rằng sự tồn tại của mỗi linh hồn cá nhân phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa: "Học thuyết về đức tin khẳng định rằng linh hồn bất tử và bất tử được Thiên Chúa tạo ra ngay lập tức".
[[Tập tin:Dutch_Church_Sleepy_Hollow_24.JPG|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Dutch_Church_Sleepy_Hollow_24.JPG|nhỏ|Sự miêu tả linh hồn trên bia mộ từ thế kỷ 17 tại nghĩa trang của [[ Nhà thờ cũ của Hà Lan buồn ngủ|Nhà thờ cổ Hà Lan của Sleepy Hollow]]]]
Người theo Tin Lành thường tin vào sự tồn tại của linh hồn, nhưng rơi vào hai phe lớn về điều này có nghĩa là gì về [[thế giới bên kia]] . Một số người, theo [[Jean Calvin|Calvin]], <ref>[[Paul Helm]], ''John Calvin's Ideas'' 2006 p. 129 "The Immortality of the Soul: As we saw when discussing Calvin's Christology, Calvin is a substance dualist."</ref> tin vào sự [[Trường sinh bất tử|bất tử của linh hồn]] và sự tồn tại có ý thức sau khi chết, trong khi những người khác, theo [[Martin Luther|Luther]], <ref>Anthony Grafton, Glenn W. Most, Salvatore Settis ''The Classical Tradition'' 2010 p. 480 "On several occasions, Luther mentioned contemptuously that the Council Fathers had decreed the soul immortal."</ref> tin vào sự [[ Tử vong của linh hồn|chết của linh hồn]] và "ngủ" vô thức cho đến khi người [[ Sự sống lại của người chết|chết sống lại]] . <ref>Richard Marius ''Martin Luther: the Christian between God and death'' 1999 p. 429 "Luther, believing in soul sleep at death, held here that in the moment of resurrection... the righteous will rise to meet Christ in the air, the ungodly will remain on earth for judgment,..."</ref> Nhiều [[phong trào tôn giáo mới]] bắt nguồn từ chủ nghĩa [[Phong trào Phục lâm|Cơ đốc phục lâm,]] bao gồm các [[Christadelphians|Kitô hữu]], <ref>''Birmingham Amended Statement of Faith''. Available [http://www.christadelphia.org/basf.htm online] {{Webarchive}}</ref> [[Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm|Những người Cơ đốc phục lâm vào ngày thứ bảy]]   và [[Nhân Chứng Giê-hô-va]] <ref>{{Chú thích tạp chí|date=15 July 2007|title=Do You Have an Immortal Soul?|url=http://wol.jw.org/en/wol/d/r1/lp-e/2007520|journal=The Watchtower|pages=3–5|archive-url=https://web.archive.org/web/20141231082848/http://wol.jw.org/en/wol/d/r1/lp-e/2007520|archive-date=31 December 2014}}</ref> <ref>{{Chú thích sách|title=What Does the Bible Really Teach?|page=211}}</ref> Nói chung, tin rằng người chết không có linh hồn tách rời khỏi cơ thể và bất tỉnh cho đến khi sống lại.

[[Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô|Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô]] dạy rằng tinh thần và thể xác cùng nhau tạo thành Linh hồn của Con người (Nhân loại). "Tinh thần và thể xác là linh hồn của con người." <ref>[Doctrine & Covenants of The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints, Salt Lake City, Utah; 88:15] https://books.google.com/books?id=Err_Jdbuu84C = "And the spirit and the body is the soul of man."</ref> Các Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng linh hồn là sự kết hợp của một linh hồn được tạo ra từ trước, <ref>{{Chú thích web|url=https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/pgp/moses/6.51?lang=eng|tựa đề=Moses 6:51|website=churchofjesuschrist.org|ngày truy cập=2016-02-23}}</ref> <ref>{{Chú thích web|url=https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/nt/heb/12.9?lang=eng|tựa đề=Hebrews 12:9|website=churchofjesuschrist.org|ngày truy cập=2016-02-23}}</ref> <ref>[https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/dc-testament/dc/131.7-8?lang=eng Joseph Smith goes so far as to say that these spirits are made of a finer matter that we cannot see in our current state: Doctrine and Covenants 131:7–8]</ref> và một cơ thể tạm thời, được hình thành bởi quan niệm vật lý trên trái đất. Sau khi chết, linh hồn tiếp tục sống và tiến bộ trong [[ Thế giới linh hồn (Latter Day Saints)|thế giới Linh hồn]] cho đến khi [[Phục sinh|hồi sinh]], khi nó được đoàn tụ với cơ thể đã từng nằm trong đó. Sự tái hợp thể xác và tinh thần này dẫn đến một linh hồn hoàn hảo, bất tử và vĩnh cửu và có khả năng nhận được một niềm vui. <ref>[[Book of Mormon]]. Alma: 5:15; 11:43–45; 40:23; 41:2</ref> <ref>Doctrine and Covenants 93:33–34 https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/dc-testament/dc/93.33-34?lang=eng</ref> Vũ trụ học ngày sau cũng mô tả "trí tuệ" là bản chất của ý thức hoặc cơ quan. Đây là những người đồng tồn tại với Thiên Chúa và làm sống động các linh hồn. <ref>Doctrine and Covenants 93:29–30 https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/dc-testament/dc/93.29-30?lang=eng</ref> Sự kết hợp của một cơ thể tinh thần mới được tạo ra với một trí thông minh tồn tại vĩnh cửu tạo thành một "sự sinh thành tinh thần"   và biện minh cho danh hiệu của Chúa là "Cha của linh hồn chúng ta". <ref>[https://www.churchofjesuschrist.org/study/manual/teachings-joseph-f-smith/chapter-37?lang=eng Chapter 37, Teachings of Presidents of the Church: Joseph F. Smith, (2011), 331–38]</ref> <ref>"Spirit." Guide to the Scriptures {{Chú thích web|url=https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/gs/spirit?lang=eng|tựa đề=Spirit|ngày truy cập=2014-04-07}}</ref> <ref>{{Chú thích web|url=https://www.churchofjesuschrist.org/study/manual/gospel-principles/chapter-41-the-postmortal-spirit-world?lang=eng|tựa đề=Gospel Principles Chapter 41: The Postmortal Spirit World|website=churchofjesuschrist.org|ngày truy cập=2016-02-23}}</ref>

=== Nho giáo ===
Một số truyền thống Nho giáo tương phản một linh hồn tâm linh với một linh hồn xác thịt. <ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=-jJwBAAAQBAJ|title=Dao Companion to Japanese Confucian Philosophy|last=Boot|first=W.J.|date=2014|publisher=Springer|isbn=9789048129218|editor-last=Huang|editor-first=Chun-chieh|series=Dao Companions to Chinese Philosophy|volume=5|location=Dordrecht|page=83|chapter=3: Spirits, Gods and Heaven in Confucian thought|quote=[...] Confucius combines ''qi'' with the divine and the essential, and the corporeal soul with ghosts, opposes the two (as ''yang'' against ''yin'', spiritual soul against corporal soul) and explains that after death the first will rise up, and the second will return to the earth, while the flesh and bones will disintegrate.|access-date=27 April 2019|editor-last2=Tucker|editor-first2=John Allen}}</ref>

=== Ấn độ giáo ===
[[Tập tin:Hindu_last_rites_for_departed_souls.jpeg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Hindu_last_rites_for_departed_souls.jpeg|nhỏ|Nghi thức cuối cùng của Ấn Độ cho các linh hồn đã ra đi]]
''Ātman'' là một từ [[Tiếng Phạn|Phạn]] mà có nghĩa là cái tôi bên trong hay linh hồn. <ref>'''[a]''' [http://www.oxforddictionaries.com/us/definition/american_english/atman Atman] {{Webarchive}}, Oxford Dictionaries, Oxford University Press (2012), '''Quote''': "1. real self of the individual; 2. a person's soul";

'''[b]''' John Bowker (2000), The Concise Oxford Dictionary of World Religions, Oxford University Press, {{ISBN|978-0-19-280094-7}}, See entry for Atman;

'''[c]''' WJ Johnson (2009), A Dictionary of Hinduism, Oxford University Press, {{ISBN|978-0-19-861025-0}}, See entry for Atman (self).</ref> <ref name="davidlorenzenatman">David Lorenzen (2004), The Hindu World (Editors: Sushil Mittal and Gene Thursby), Routledge, {{ISBN|0-415-21527-7}}, pp. 208–09, '''Quote''': "Advaita and nirguni movements, on the other hand, stress an interior mysticism in which the devotee seeks to discover the identity of individual soul (atman) with the universal ground of being (brahman) or to find god within himself".</ref> <ref>Chad Meister (2010), The Oxford Handbook of Religious Diversity, Oxford University Press, {{ISBN|978-0-19-534013-6}}, p. 63; '''Quote''': "Even though Buddhism explicitly rejected the Hindu ideas of Atman ("soul") and Brahman, Hinduism treats Sakyamuni Buddha as one of the ten avatars of Vishnu."</ref> Trong [[ Triết học Ấn Độ giáo|triết học Ấn Độ giáo]], đặc biệt là trong trường phái [[Vedanta]] của [[Ấn Độ giáo]], Ātman là [[ Nguyên tắc đầu tiên|nguyên tắc đầu tiên]], <ref>Deussen, Paul and Geden, A.S. The Philosophy of the Upanishads. Cosimo Classics (1 June 2010). p. 86. {{ISBN|1-61640-240-7}}.</ref> con người ''thật'' của một cá nhân vượt ra ngoài sự đồng nhất với các hiện tượng, bản chất của một cá nhân. Để đạt được [[Giải thoát|sự giải thoát (moksha)]], một con người phải có được sự hiểu biết về bản thân (atma [[ Đức Giê-hô-va|jnana]] ), đó là nhận ra rằng con người thật của họ (Ātman) giống hệt với [[Đại ngã|Brahman]] siêu việt. <ref name="davidlorenzenatman" />

[[ Triết học Ấn Độ giáo|Sáu trường phái chính thống của Ấn Độ giáo]] tin rằng có Ātman (bản thân, bản chất) trong mỗi sinh mệnh.<ref name="4sources">KN Jayatilleke (2010), Early Buddhist Theory of Knowledge, {{ISBN|978-81-208-0619-1}}, pp. 246–49, from note 385 onwards; Steven Collins (1994), Religion and Practical Reason (Editors: Frank Reynolds, David Tracy), State Univ of New York Press, {{ISBN|978-0-7914-2217-5}}, p. 64; "Central to Buddhist soteriology is the doctrine of not-self (Pali: anattā, Sanskrit: anātman, the opposed doctrine of ātman is central to Brahmanical thought). Put very briefly, this is the [Buddhist] doctrine that human beings have no soul, no self, no unchanging essence."; Edward Roer (Translator), {{Google books|3uwDAAAAMAAJ|Shankara's Introduction|page=2}} to ''Brihad Aranyaka Upanishad'', pp. 2–4; Katie Javanaud (2013), [https://philosophynow.org/issues/97/Is_The_Buddhist_No-Self_Doctrine_Compatible_With_Pursuing_Nirvana Is The Buddhist ‘No-Self’ Doctrine Compatible With Pursuing Nirvana?] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20150206211126/https://philosophynow.org/issues/97/Is_The_Buddhist_No-Self_Doctrine_Compatible_With_Pursuing_Nirvana|date=6 February 2015}}, Philosophy Now</ref>

Trong [[Ấn Độ giáo]] và [[Kỳ Na giáo|Jaina giáo]], một ''jiva'' ( {{Lang-sa|जीव}} , {{IAST|jīva}}, ''jiwa'' đánh vần thay thế; {{Lang-hi|जीव}} , {{IAST|jīv}}, đánh vần thay thế ''jeev'' ) là một sinh vật sống, hoặc bất kỳ thực thể nào thấm nhuần một lực sống.

Trong đạo Jain, ''jiva'' là bản chất bất tử hoặc linh hồn của một sinh vật sống (người, động vật, cá hoặc thực vật, v.v.) sống sót sau cái chết về thể xác. <ref name="jajinixxii">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=54A9AAAAIAAJ|title=Outlines of Jainism|last=J Jaini|publisher=Cambridge University Press|year=1940|pages=xxii–xxiii}}</ref> Khái niệm ''Ajiva'' trong đạo Jain có nghĩa là "không phải linh hồn" và đại diện cho vật chất (bao gồm cả cơ thể), thời gian, không gian, không chuyển động và chuyển động. <ref name="jajinixxii" /> Trong đạo Jain, một ''Jiva'' là ''samsari'' (trần tục, bị cuốn vào vòng luân hồi) hoặc ''mukta'' (được giải thoát). <ref>{{Chú thích|title=Gommatsara Jiva-kanda|year=1927}} [https://archive.org/download/sacredbooksofthe029558mbp Alt URL]</ref>

Khái niệm ''jiva'' trong đạo Jain tương tự như ''[[ Atman (Ấn Độ giáo)|atman]]'' trong Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, một số truyền thống Ấn giáo phân biệt giữa hai khái niệm, với ''jiva'' được coi là cá nhân, trong khi atman là bản thân không thay đổi phổ quát hiện diện trong tất cả chúng sinh và mọi thứ khác như [[Đại ngã|Brahman]] siêu hình. <ref name="varenne46">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=meUWxDDqzuAC&pg=PA46|title=Yoga and the Hindu Tradition|last=Jean Varenne|publisher=Motilal Banarsidass|year=1989|isbn=978-81-208-0543-9|pages=45–47}}</ref> <ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=xfvaAAAAQBAJ|title=Brahman: A Comparative Theology|last=Michael Myers|publisher=Routledge|year=2013|isbn=978-1-136-83565-0|pages=140–43}}</ref> <ref>[https://books.google.com/books?id=kO8-980xGk8C&pg=PA32&dq=hiranyagarba&ei=gCnrSaGyLZLQMu3AmaQB ''The Philosophy of Person: Solidarity and Cultural Creativity'', Jozef Tischner and George McClean, 1994, p. 32]</ref> Loại thứ hai đôi khi được gọi là ''jiva-atman'' (một linh hồn trong cơ thể sống). <ref name="varenne46" /> Theo [[ Brahma Kumaris|Brahma Kumaris]], linh hồn là một điểm sáng vĩnh cửu.


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==

Phiên bản lúc 17:48, ngày 21 tháng 7 năm 2020

Tâm hồn, hay linh hồn, trong nhiều truyền thống tôn giáo, triết họcthần thoại, là bản chất hợp nhất (incorporeal essence) của một sinh vật.[1] Tâm hồn hay psyche (tiếng Hy Lạp cổ đại: ψυχή psykhḗ, của ψύχεψύχεννννýý, "thở") bao gồm các khả năng tinh thần của một sinh vật: lý trí, tính cách, cảm giác, ý thức, trí nhớ, nhận thức, suy nghĩ, v.v. Tùy thuộc vào hệ thống triết học, một tâm hồn có thể là phàm nhân hoặc bất tử.[2] Trong Judeo-Kitô giáo, chỉ có con người có tâm hồn bất tử (mặc dù sự bất tử bị tranh chấp trong Do Thái giáo và khái niệm về sự bất tử có thể đã bị ảnh hưởng bởi Plato).[3] Chẳng hạn, nhà thần học Công giáo Thomas Aquinas gán "tâm hồn" (anima) cho tất cả các sinh vật nhưng lập luận rằng chỉ có tâm hồn con người là bất tử.[4]

Các tôn giáo, khác đáng chú ý nhất là Ấn Độ giáoKỳ Na giáo (Jain), cho rằng tất cả các sinh vật sống từ vi khuẩn nhỏ nhất đến lớn nhất của động vật có vú là chính các tâm hồn (Atman, jiva) và có đại diện vật lý của chúng (cơ thể) trên thế giới. Bản thân (self) thực tế là tâm hồn, trong khi cơ thể chỉ là một cơ chế để trải nghiệm nghiệp chướng của cuộc sống đó. Do đó, ví dụ nếu chúng ta nhìn thấy một con hổ thì có một bản sắc tự ý thức trú ngụ trong đó (tâm hồn) và một đại diện vật lý (toàn bộ cơ thể của con hổ, có thể quan sát được) trên thế giới.

Một số người dạy rằng ngay cả những thực thể phi sinh học (như sông và núi) cũng có linh hồn. Niềm tin này được gọi là thuyết vật linh.[5] Các nhà triết học Hy Lạp, như Socrates, PlatoAristotle, hiểu rằng tâm hồn (ψυχή psūchê) phải có một khoa hợp lý, bài tập là hành động thiêng liêng nhất của con người. Tại phiên tòa bào chữa của mình, Socrates thậm chí còn tóm tắt lời dạy của mình không gì khác hơn là một lời khích lệ để đồng bào Athen của mình vượt trội trong các vấn đề về tâm lý vì tất cả các sự đúng đắn cơ thể đều phụ thuộc vào sự xuất sắc như vậy (Apology 30a–b).

Sự đồng thuận hiện nay của khoa học hiện đại là không có bằng chứng ủng hộ sự tồn tại của tâm hồn khi theo truyền thống được định nghĩa là hơi thở tinh thần của cơ thể. Trong siêu hình học, khái niệm "Tâm hồn" có thể được đánh đồng với khái niệm "Tâm trí" để chỉ ý thức và trí tuệ của cá nhân.

Phân biệt với linh hồn

Hồn (soul) thường có nghĩa là năng lượng sống bên trong mang tính gắn kết (attachment) với phần vật chất (matter) cơ thể sống trong khi spirit thường có nghĩa là năng lượng chuyển động khi không có phần cơ thể như ma, thiên thần hoặc ác quỷ.[6]

Quan điểm tôn giáo

Cận Đông cổ đại

Hồn của Pe và Nekhen kéo theo cuộc mặc cả của hoàng gia trên một bức phù điêu của đền thờ Ramesses II ở Abydos.

Trong tôn giáo Ai Cập cổ đại, một cá nhân được cho là được tạo thành từ nhiều yếu tố khác nhau, gồm một số yếu tố vật chất và một số tâm linh. Những ý tưởng tương tự được tìm thấy trong tôn giáo Assyrian và Babylon cổ đại. Kuttamuwa, một quan chức hoàng gia thế kỷ thứ 8 TCN từ Sam'al, đã ra lệnh cho một tấm bia khắc được dựng lên sau cái chết của ông. Dòng chữ yêu cầu những người thương tiếc Kuttamuwa kỷ niệm cuộc sống và thế giới bên kia của ông bằng những bữa tiệc "vì hồn của tôi ở trong tấm bia này". Nó là một trong những tài liệu tham khảo sớm nhất về một linh hồn như một thực thể riêng biệt với cơ thể. 800 pound (360 kg) tấm bazan cao 3 ft (0,91 m) và rộng 2 ft (0,61 m) . Nó đã được phát hiện trong mùa khai quật thứ ba bởi Cuộc thám hiểm Neubauer của Viện Phương Đông ở Chicago, Illinois.

Bahá'í

Bahá'í giáo khẳng định rằng "linh hồn là dấu hiệu của Thiên Chúa, một viên ngọc quý trên trời mà thực tế mà những người đàn ông thông thái nhất đã không nắm bắt được, và bí ẩn, không có tâm trí nào, có thể hy vọng làm sáng tỏ". [7] Bahá'u'lláh tuyên bố rằng linh hồn không chỉ tiếp tục sống sau cái chết thể xác của cơ thể con người, mà trên thực tế, là bất tử. [8] Thiên đàng có thể được xem một phần là trạng thái gần gũi của linh hồn với Thiên Chúa; và địa ngục như một trạng thái xa xôi từ Thiên Chúa. Mỗi tiểu bang theo sau như một kết quả tự nhiên của những nỗ lực cá nhân, hoặc thiếu nó, để phát triển tâm linh. [9] Bahá'u'lláh đã dạy rằng các cá nhân không có sự tồn tại trước cuộc sống của họ ở đây trên trái đất và sự tiến hóa của linh hồn luôn hướng về Thiên Chúa và tránh xa thế giới vật chất.

Phật giáo

Phật giáo thuyết giảng nguyên tắc vô thường, rằng tất cả mọi thứ đều ở trong tình trạng thay đổi liên tục: tất cả đều thay đổi, và không có trạng thái vĩnh viễn tồn tại. [10] [11] Điều này áp dụng cho con người nhiều như mọi thứ khác trong vũ trụ. Như vậy, một con người không có bản ngã vĩnh viễn. [12] [13] Theo học thuyết về anatta (Pāli; tiếng Phạn: anātman ) - "vô ngã" hoặc "vô hồn" - những từ "tôi" hay "của tôi" không đề cập đến bất kỳ điều gì cố định. Chúng đơn giản là các thuật ngữ thuận tiện cho phép chúng ta đề cập đến một thực thể luôn thay đổi.

Học thuyết anatta không phải là một loại chủ nghĩa duy vật . Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của các thực thể "phi vật chất", và nó (ít nhất là theo truyền thống) phân biệt các trạng thái cơ thể với các trạng thái tinh thần. [14] Do đó, bản dịch thông thường của anatta là "vô hồn" [15] có thể gây nhầm lẫn. Nếu từ "linh hồn" chỉ đơn giản đề cập đến một thành phần kết hợp trong những sinh vật có thể tiếp tục sau khi chết, thì Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của linh hồn. [16] Thay vào đó, Phật giáo phủ nhận sự tồn tại của một thực thể vĩnh viễn không đổi đằng sau các thành phần thay đổi và kết hợp của một sinh vật. Giống như cơ thể thay đổi từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, nên những suy nghĩ đến và đi, và không có trạng thái vĩnh viễn nào nằm dưới tâm trí trải nghiệm những suy nghĩ này, như trong chủ nghĩa Cartesian . Các trạng thái tinh thần ý thức chỉ đơn giản phát sinh và diệt vong mà không có "nhà tư tưởng" đằng sau chúng. [17] Khi cơ thể chết, Phật tử tin rằng các quá trình tinh thần kết hợp tiếp tục và được tái sinh trong một cơ thể mới. [16] Bởi vì các quá trình tinh thần liên tục thay đổi, nên sinh vật được tái sinh không hoàn toàn khác biệt, cũng không hoàn toàn giống với, sinh vật đã chết. [18] Tuy nhiên, sinh vật mới liên tục tồn tại với cái chết - giống như cách "bạn" của khoảnh khắc này liên tục với "bạn" của một khoảnh khắc trước đó, mặc dù thực tế là bạn đang thay đổi liên tục.

Giáo lý Phật giáo cho rằng một quan niệm về một bản ngã vĩnh viễn, vĩnh viễn là một ảo tưởng là một trong những nguyên nhân gây ra xung đột của con người trên các cấp độ tình cảm, xã hội và chính trị. [19] [20] Họ nói thêm rằng một sự hiểu biết về anatta cung cấp một mô tả chính xác về tình trạng của con người, và sự hiểu biết này cho phép chúng ta bình định những ham muốn trần tục của chúng ta.

Nhiều trường phái Phật giáo có những ý tưởng khác nhau về những gì được tiếp tục sau khi chết. [21] Trường phái Duy thức tông trong Phật giáo Đại thừa cho biết có ý thức lưu trữ tiếp tục tồn tại sau khi chết. [22] Trong một số trường phái, đặc biệt là Phật giáo Tây Tạng, quan điểm là có ba tâm trí: tâm trí rất tinh tế, không tan rã trong cái chết; tâm trí tinh tế, tan rã trong cái chết và đó là "tâm trí mơ mộng" hay "tâm trí vô thức"; và tâm trí thô thiển, không tồn tại khi một người đang ngủ . Do đó, tâm trí thô thiển thường ít hơn so với tâm trí tinh tế, không tồn tại trong cái chết. Tuy nhiên, tâm trí rất tinh tế vẫn tiếp tục, và khi nó "bắt kịp", hoặc trùng hợp với các hiện tượng, một lần nữa, một tâm trí tinh tế mới xuất hiện, với tính cách / giả định / thói quen của riêng nó, và thực thể đó gặp phải nghiệp chướng trong sự liên tục của hiện tại.

Thực vật được cho là không có tình cảm - vô tình (無情), [23] nhưng các nhà sư Phật giáo được yêu cầu không chặt hoặc đốt cây, bởi vì một số chúng sinh dựa vào chúng. [24] Một số nhà sư Đại thừa cho biết những sinh vật không có tình cảm như thực vật và đá cũng có Phật tính . [25]

Một số Phật tử hiện đại, đặc biệt là ở các nước phương Tây, từ chối hay ít nhất là có lập trường bất khả tri đối với khái niệm tái sinh. Stephen Batch Bachelor thảo luận về điều này trong cuốn sách Phật giáo không có niềm tin . Những người khác chỉ ra nghiên cứu đã được tiến hành tại Đại học Virginia là bằng chứng cho thấy một số người được tái sinh.

Kitô giáo

Linh hồn được đưa lên thiên đường bởi William Bouguereau

Theo một bí truyền Kitô giáo thông thường, khi con người chết đi, linh hồn của họ sẽ được Chúa phán xét và quyết tâm lên Thiên đàng hoặc đến Địa ngục chờ ngày phục sinh . Các Kitô hữu khác hiểu linh hồn là sự sống và tin rằng người chết không có sự sống cho đến sau khi phục sinh (chủ nghĩa có điều kiện Kitô giáo ). Một số Kitô hữu tin rằng linh hồn và thể xác của những người bất chính sẽ bị hủy diệt trong địa ngục thay vì đau khổ vĩnh viễn (sự hủy diệt ). Các tín đồ sẽ được thừa hưởng cuộc sống vĩnh cửu hoặc trên Thiên đàng, hoặc trong Vương quốc của Thiên Chúa trên trái đất và được hưởng mối tương giao vĩnh cửu với Thiên Chúa.

Mặc dù tất cả các nhánh chính của Kitô giáo - Công giáo, Chính thống giáo Đông phương, Chính thống giáo phương Đông, Giáo hội Đông phương, Tin lànhTin Lành chính thống - đều dạy rằng Jesus Christ đóng vai trò quyết định trong quá trình cứu rỗi Kitô giáo, các chi tiết cụ thể của vai trò đó và phần được đóng bởi cá nhân hoặc theo các nghi lễ và mối quan hệ giáo hội, là một vấn đề đa dạng trong giáo huấn chính thức của nhà thờ, suy đoán thần học và thực hành phổ biến. Một số Kitô hữu tin rằng nếu một người không ăn năn tội lỗi của mình và không tin vào Jesus Christ là Chúa và Chúa cứu rỗi, thì người đó sẽ xuống địa ngục và chịu sự đày đọa vĩnh viễn hoặc chia ly vĩnh viễn với Thiên Chúa. Một số giữ niềm tin rằng các em bé (bao gồm cả người chưa sinh) và những người bị suy giảm nhận thức hoặc tinh thần đã chết sẽ được nhận lên Thiên đàng trên cơ sở ân sủng của Thiên Chúa thông qua sự hy sinh của Giêsu. [26]

Cũng có niềm tin vào sự cứu rỗi phổ quát .

Nguồn gốc của linh hồn

Linh hồn bị nguyền rủa. Tranh của Michelangelo Buônarroti c. 1525

"Nguồn gốc của linh hồn" đã cung cấp một câu hỏi bực tức trong Kitô giáo. Các lý thuyết chính được đưa ra bao gồm chủ nghĩa sáng tạo linh hồn, chủ nghĩa truyền thốngtiền tồn tại . Theo chủ nghĩa sáng tạo linh hồn, Thiên Chúa tạo ra mỗi linh hồn cá nhân được tạo ra trực tiếp, hoặc tại thời điểm thụ thai hoặc một thời gian sau đó. Theo truyền thống, linh hồn xuất phát từ cha mẹ bởi thế hệ tự nhiên. Theo lý thuyết preexistence, linh hồn tồn tại trước thời điểm thụ thai. Đã có khác nhau suy nghĩ về việc liệu con người phôi có linh hồn từ lúc thụ thai, hoặc cho dù có một điểm giữa thụ thai và sinh nơi thai nhi có được một linh hồn, ý thức, và / hoặc nhân vị . Các quan điểm trong câu hỏi này có thể đóng một vai trò trong các đánh giá về đạo đức của phá thai . [27] [28]

Ba ngôi của linh hồn

Augustine (354-430), một trong những nhà tư tưởng Kitô giáo đầu tiên có ảnh hưởng nhất của Kitô giáo, đã mô tả linh hồn là "một chất đặc biệt, có lý do, thích nghi để cai trị cơ thể". Một số Kitô hữu tán thành một quan điểm ba ngôi của con người, đó là đặc điểm con người như bao gồm một cơ thể (soma), linh hồn (tinh thần), và tinh thần (pneuma). [29] Tuy nhiên, phần lớn các học giả Kinh Thánh hiện đại chỉ ra làm thế nào các khái niệm "tinh thần" và "linh hồn" được sử dụng thay thế cho nhau trong nhiều đoạn Kinh thánh, và do đó giữ cho sự phân đôi: quan điểm rằng mỗi người bao gồm một thể xác và một linh hồn. Phao-lô nói rằng "cuộc chiến cơ thể chống lại" linh hồn, "Vì lời của Đức Chúa Trời đang sống và hoạt động và sắc bén hơn bất kỳ con dao hai lưỡi nào, và đâm xuyên qua sự phân chia linh hồn và tinh thần" (Dt 4:12 NASB) và rằng "Tôi tự chọn cơ thể của mình", để giữ cho nó được kiểm soát.

Quan điểm của các trường phái khác nhau

Giáo lý hiện tại của Giáo hội Công giáo định nghĩa linh hồn là "khía cạnh bên trong nhất của con người, có giá trị lớn nhất ở họ, mà trong hình ảnh của Thiên Chúa được mô tả là" linh hồn "biểu thị nguyên tắc tâm linh nơi con người". [30] Tất cả các linh hồn sống và chết sẽ được đánh giá bởi Giêsu khi ông trở lại Trái Đất . Giáo hội Công giáo dạy rằng sự tồn tại của mỗi linh hồn cá nhân phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa: "Học thuyết về đức tin khẳng định rằng linh hồn bất tử và bất tử được Thiên Chúa tạo ra ngay lập tức".

Sự miêu tả linh hồn trên bia mộ từ thế kỷ 17 tại nghĩa trang của Nhà thờ cổ Hà Lan của Sleepy Hollow

Người theo Tin Lành thường tin vào sự tồn tại của linh hồn, nhưng rơi vào hai phe lớn về điều này có nghĩa là gì về thế giới bên kia . Một số người, theo Calvin, [31] tin vào sự bất tử của linh hồn và sự tồn tại có ý thức sau khi chết, trong khi những người khác, theo Luther, [32] tin vào sự chết của linh hồn và "ngủ" vô thức cho đến khi người chết sống lại . [33] Nhiều phong trào tôn giáo mới bắt nguồn từ chủ nghĩa Cơ đốc phục lâm, bao gồm các Kitô hữu, [34] Những người Cơ đốc phục lâm vào ngày thứ bảy   và Nhân Chứng Giê-hô-va [35] [36] Nói chung, tin rằng người chết không có linh hồn tách rời khỏi cơ thể và bất tỉnh cho đến khi sống lại.

Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô dạy rằng tinh thần và thể xác cùng nhau tạo thành Linh hồn của Con người (Nhân loại). "Tinh thần và thể xác là linh hồn của con người." [37] Các Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng linh hồn là sự kết hợp của một linh hồn được tạo ra từ trước, [38] [39] [40] và một cơ thể tạm thời, được hình thành bởi quan niệm vật lý trên trái đất. Sau khi chết, linh hồn tiếp tục sống và tiến bộ trong thế giới Linh hồn cho đến khi hồi sinh, khi nó được đoàn tụ với cơ thể đã từng nằm trong đó. Sự tái hợp thể xác và tinh thần này dẫn đến một linh hồn hoàn hảo, bất tử và vĩnh cửu và có khả năng nhận được một niềm vui. [41] [42] Vũ trụ học ngày sau cũng mô tả "trí tuệ" là bản chất của ý thức hoặc cơ quan. Đây là những người đồng tồn tại với Thiên Chúa và làm sống động các linh hồn. [43] Sự kết hợp của một cơ thể tinh thần mới được tạo ra với một trí thông minh tồn tại vĩnh cửu tạo thành một "sự sinh thành tinh thần"   và biện minh cho danh hiệu của Chúa là "Cha của linh hồn chúng ta". [44] [45] [46]

Nho giáo

Một số truyền thống Nho giáo tương phản một linh hồn tâm linh với một linh hồn xác thịt. [47]

Ấn độ giáo

Nghi thức cuối cùng của Ấn Độ cho các linh hồn đã ra đi

Ātman là một từ Phạn mà có nghĩa là cái tôi bên trong hay linh hồn. [48] [49] [50] Trong triết học Ấn Độ giáo, đặc biệt là trong trường phái Vedanta của Ấn Độ giáo, Ātman là nguyên tắc đầu tiên, [51] con người thật của một cá nhân vượt ra ngoài sự đồng nhất với các hiện tượng, bản chất của một cá nhân. Để đạt được sự giải thoát (moksha), một con người phải có được sự hiểu biết về bản thân (atma jnana ), đó là nhận ra rằng con người thật của họ (Ātman) giống hệt với Brahman siêu việt. [49]

Sáu trường phái chính thống của Ấn Độ giáo tin rằng có Ātman (bản thân, bản chất) trong mỗi sinh mệnh.[52]

Trong Ấn Độ giáoJaina giáo, một jiva ( tiếng Phạn: जीव , jīva, jiwa đánh vần thay thế; tiếng Hindi: जीव , jīv, đánh vần thay thế jeev ) là một sinh vật sống, hoặc bất kỳ thực thể nào thấm nhuần một lực sống.

Trong đạo Jain, jiva là bản chất bất tử hoặc linh hồn của một sinh vật sống (người, động vật, cá hoặc thực vật, v.v.) sống sót sau cái chết về thể xác. [53] Khái niệm Ajiva trong đạo Jain có nghĩa là "không phải linh hồn" và đại diện cho vật chất (bao gồm cả cơ thể), thời gian, không gian, không chuyển động và chuyển động. [53] Trong đạo Jain, một Jivasamsari (trần tục, bị cuốn vào vòng luân hồi) hoặc mukta (được giải thoát). [54]

Khái niệm jiva trong đạo Jain tương tự như atman trong Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, một số truyền thống Ấn giáo phân biệt giữa hai khái niệm, với jiva được coi là cá nhân, trong khi atman là bản thân không thay đổi phổ quát hiện diện trong tất cả chúng sinh và mọi thứ khác như Brahman siêu hình. [55] [56] [57] Loại thứ hai đôi khi được gọi là jiva-atman (một linh hồn trong cơ thể sống). [55] Theo Brahma Kumaris, linh hồn là một điểm sáng vĩnh cửu.

Tham khảo

  1. ^ "soul."Encyclopædia Britannica. 2010. Encyclopædia Britannica 2006 CD. 13 July 2010.
  2. ^ “Soul (noun)”. Oxford English Dictionary (OED) online edition. Oxford English Dictionary (OED). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2016.
  3. ^ “Immortality of the Soul”. www.jewishencyclopedia.com. Bản gốc lưu trữ 20 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 14 Tháng mười hai năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  4. ^ Peter Eardley and Carl Still, Aquinas: A Guide for the Perplexed (London: Continuum, 2010), pp. 34–35
  5. ^ "Soul", The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition. 2001–07. Retrieved 12 November 2008.
  6. ^ Kaine, Kristina. “Is There a Difference Between the Spirit and the Soul?”. HuffPost. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2019.
  7. ^ Bahá'u'lláh (1976). Gleanings from the Writings of Bahá'u'lláh. Wilmette, Illinois: Bahá'í Publishing Trust. tr. 158–63. ISBN 978-0-87743-187-9. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  8. ^ Bahá'u'lláh (1976). Gleanings from the Writings of Bahá'u'lláh. Wilmette, Illinois: Bahá'í Publishing Trust. tr. 155–58. ISBN 978-0-87743-187-9. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  9. ^ Taherzadeh, Adib (1976). The Revelation of Bahá'u'lláh, Volume 1. Oxford: George Ronald. ISBN 978-0-85398-270-8. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  10. ^ Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), p. 25
  11. ^ Sources of Indian Tradition, vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), pp. 92–93
  12. ^ Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), pp. 55–57
  13. ^ Sources of Indian Tradition, vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), p. 93
  14. ^ Sources of Indian Tradition, vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), pp. 93–94
  15. ^ for example, in Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), pp. 51–66
  16. ^ a b Sources of Indian Tradition, vol. 1, ed. Theodore de Bary (NY: Columbia UP, 1958), p. 94
  17. ^ Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), p. 26
  18. ^ Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), p. 34
  19. ^ Conze, Edward (1993). A Short History of Buddhism. Oneworld. tr. 14. ISBN 978-1-85168-066-5.
  20. ^ Walpola Rahula, What the Buddha Taught (NY: Grove, 1962), p. 51
  21. ^ “六朝神滅不滅論與佛教輪迴主體之研究”. Ccbs.ntu.edu.tw. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  22. ^ “佛教心理論之發達觀”. Ccbs.ntu.edu.tw. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  23. ^ “植物、草木、山石是无情众生吗?有佛性吗?”. Bskk.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  24. ^ “從律典探索佛教對動物的態度(中)”. Awker.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  25. ^ “無情眾生現今是不具有神識,但具有佛性!”. Dharma.com.tw. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  26. ^ Smith, Joseph (1981). Doctrine and Covenants. Salt Lake City, Utah: The Church of Jesus Christ of Latter-Day Saints. tr. 286. ISBN 978-1-59297-503-7.
  27. ^ "Do Embryos Have Souls?", Father Tadeusz Pacholczyk, PhD, Catholic Education Resource Center”. Catholiceducation.org. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  28. ^ Matthew Syed (12 tháng 5 năm 2008). “Embryos have souls? What nonsense”. The Times. UK. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  29. ^ “Soul”. newadvent.org. 1 tháng 7 năm 1912. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011. In St. Paul we find a more technical phraseology employed with great consistency. Psyche is now appropriated to the purely natural life; pneuma to the life of supernatural religion, the principle of which is the Holy Spirit, dwelling and operating in the heart. The opposition of flesh and spirit is accentuated afresh (Romans 1:18, etc.). This Pauline system, presented to a world already prepossessed in favour of a quasi-Platonic Dualism, occasioned one of the earliest widespread forms of error among Christian writers – the doctrine of the Trichotomy. According to this, man, perfect man (teleios) consists of three parts: body, soul, spirit (soma, psyche, pneuma).
  30. ^ “Catechism of the Catholic Church, paragraph 363”. Vatican.va. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  31. ^ Paul Helm, John Calvin's Ideas 2006 p. 129 "The Immortality of the Soul: As we saw when discussing Calvin's Christology, Calvin is a substance dualist."
  32. ^ Anthony Grafton, Glenn W. Most, Salvatore Settis The Classical Tradition 2010 p. 480 "On several occasions, Luther mentioned contemptuously that the Council Fathers had decreed the soul immortal."
  33. ^ Richard Marius Martin Luther: the Christian between God and death 1999 p. 429 "Luther, believing in soul sleep at death, held here that in the moment of resurrection... the righteous will rise to meet Christ in the air, the ungodly will remain on earth for judgment,..."
  34. ^ Birmingham Amended Statement of Faith. Available online Error in Webarchive template: Empty url.
  35. ^ “Do You Have an Immortal Soul?”. The Watchtower: 3–5. 15 tháng 7 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2014.
  36. ^ What Does the Bible Really Teach?. tr. 211.
  37. ^ [Doctrine & Covenants of The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints, Salt Lake City, Utah; 88:15] https://books.google.com/books?id=Err_Jdbuu84C = "And the spirit and the body is the soul of man."
  38. ^ “Moses 6:51”. churchofjesuschrist.org. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  39. ^ “Hebrews 12:9”. churchofjesuschrist.org. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  40. ^ Joseph Smith goes so far as to say that these spirits are made of a finer matter that we cannot see in our current state: Doctrine and Covenants 131:7–8
  41. ^ Book of Mormon. Alma: 5:15; 11:43–45; 40:23; 41:2
  42. ^ Doctrine and Covenants 93:33–34 https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/dc-testament/dc/93.33-34?lang=eng
  43. ^ Doctrine and Covenants 93:29–30 https://www.churchofjesuschrist.org/study/scriptures/dc-testament/dc/93.29-30?lang=eng
  44. ^ Chapter 37, Teachings of Presidents of the Church: Joseph F. Smith, (2011), 331–38
  45. ^ "Spirit." Guide to the Scriptures “Spirit”. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2014.
  46. ^ “Gospel Principles Chapter 41: The Postmortal Spirit World”. churchofjesuschrist.org. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  47. ^ Boot, W.J. (2014). “3: Spirits, Gods and Heaven in Confucian thought”. Trong Huang, Chun-chieh; Tucker, John Allen (biên tập). Dao Companion to Japanese Confucian Philosophy. Dao Companions to Chinese Philosophy. 5. Dordrecht: Springer. tr. 83. ISBN 9789048129218. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2019. [...] Confucius combines qi with the divine and the essential, and the corporeal soul with ghosts, opposes the two (as yang against yin, spiritual soul against corporal soul) and explains that after death the first will rise up, and the second will return to the earth, while the flesh and bones will disintegrate.
  48. ^ [a] Atman Error in Webarchive template: Empty url., Oxford Dictionaries, Oxford University Press (2012), Quote: "1. real self of the individual; 2. a person's soul"; [b] John Bowker (2000), The Concise Oxford Dictionary of World Religions, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-280094-7, See entry for Atman; [c] WJ Johnson (2009), A Dictionary of Hinduism, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-861025-0, See entry for Atman (self).
  49. ^ a b David Lorenzen (2004), The Hindu World (Editors: Sushil Mittal and Gene Thursby), Routledge, ISBN 0-415-21527-7, pp. 208–09, Quote: "Advaita and nirguni movements, on the other hand, stress an interior mysticism in which the devotee seeks to discover the identity of individual soul (atman) with the universal ground of being (brahman) or to find god within himself".
  50. ^ Chad Meister (2010), The Oxford Handbook of Religious Diversity, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-534013-6, p. 63; Quote: "Even though Buddhism explicitly rejected the Hindu ideas of Atman ("soul") and Brahman, Hinduism treats Sakyamuni Buddha as one of the ten avatars of Vishnu."
  51. ^ Deussen, Paul and Geden, A.S. The Philosophy of the Upanishads. Cosimo Classics (1 June 2010). p. 86. ISBN 1-61640-240-7.
  52. ^ KN Jayatilleke (2010), Early Buddhist Theory of Knowledge, ISBN 978-81-208-0619-1, pp. 246–49, from note 385 onwards; Steven Collins (1994), Religion and Practical Reason (Editors: Frank Reynolds, David Tracy), State Univ of New York Press, ISBN 978-0-7914-2217-5, p. 64; "Central to Buddhist soteriology is the doctrine of not-self (Pali: anattā, Sanskrit: anātman, the opposed doctrine of ātman is central to Brahmanical thought). Put very briefly, this is the [Buddhist] doctrine that human beings have no soul, no self, no unchanging essence."; Edward Roer (Translator), Shankara's Introduction, tr. 2, tại Google Books to Brihad Aranyaka Upanishad, pp. 2–4; Katie Javanaud (2013), Is The Buddhist ‘No-Self’ Doctrine Compatible With Pursuing Nirvana? Lưu trữ 6 tháng 2 2015 tại Wayback Machine, Philosophy Now
  53. ^ a b J Jaini (1940). Outlines of Jainism. Cambridge University Press. tr. xxii–xxiii.
  54. ^ Gommatsara Jiva-kanda, 1927 Alt URL
  55. ^ a b Jean Varenne (1989). Yoga and the Hindu Tradition. Motilal Banarsidass. tr. 45–47. ISBN 978-81-208-0543-9.
  56. ^ Michael Myers (2013). Brahman: A Comparative Theology. Routledge. tr. 140–43. ISBN 978-1-136-83565-0.
  57. ^ The Philosophy of Person: Solidarity and Cultural Creativity, Jozef Tischner and George McClean, 1994, p. 32