Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tai biến mạch máu não”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 16: Dòng 16:
Trong năm 2013, khoảng 6,9 triệu người bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ và 3,4 triệu người bị đột quỵ do xuất huyết.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Global Burden of Disease Study 2013 Collaborators|date=August 2015|title=Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 301 acute and chronic diseases and injuries in 188 countries, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013|journal=Lancet|volume=386|issue=9995|pages=743–800|doi=10.1016/s0140-6736(15)60692-4|pmc=4561509|pmid=26063472}}</ref> Năm 2015 có khoảng 42,4 &nbsp; hàng triệu người trước đây bị đột quỵ và vẫn còn sống.<ref name="GBD2015Pre">{{Chú thích tạp chí|last=GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators|date=October 2016|title=Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015|journal=Lancet|volume=388|issue=10053|pages=1545–1602|doi=10.1016/S0140-6736(16)31678-6|pmc=5055577|pmid=27733282}}</ref> Từ năm 1990 đến 2010, số lượng đột quỵ xảy ra mỗi năm giảm khoảng 10% ở các nước [[Nước công nghiệp|phát triển]] và tăng 10% ở các nước đang phát triển.<ref name="Fei2013" /> Năm 2015, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thường gặp thứ hai sau [[bệnh động mạch vành]], chiếm 6,3 &nbsp; triệu người chết (11% tổng số).<ref name="GBD2015De">{{Chú thích tạp chí|last=GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators|date=October 2016|title=Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015|journal=Lancet|volume=388|issue=10053|pages=1459–1544|doi=10.1016/S0140-6736(16)31012-1|pmc=5388903|pmid=27733281}}</ref> Khoảng 3,0 triệu ca tử vong do đột quỵ do thiếu máu cục bộ trong khi 3,3 triệu ca tử vong do đột quỵ do xuất huyết.<ref name="GBD2015De" /> Khoảng một nửa số người bị đột quỵ sống được dưới một năm.<ref name="Donnan2008"/> Nhìn chung, hai phần ba đột quỵ xảy ra ở những người trên 65 tuổi.<ref name="Fei2013">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Feigin VL, Forouzanfar MH, Krishnamurthi R, Mensah GA, Connor M, Bennett DA, Moran AE, Sacco RL, Anderson L, Truelsen T, O'Donnell M, Venketasubramanian N, Barker-Collo S, Lawes CM, Wang W, Shinohara Y, Witt E, Ezzati M, Naghavi M, Murray C|date=January 2014|title=Global and regional burden of stroke during 1990-2010: findings from the Global Burden of Disease Study 2010|journal=Lancet|volume=383|issue=9913|pages=245–54|doi=10.1016/S0140-6736(13)61953-4|pmc=4181600|pmid=24449944}}</ref>
Trong năm 2013, khoảng 6,9 triệu người bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ và 3,4 triệu người bị đột quỵ do xuất huyết.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Global Burden of Disease Study 2013 Collaborators|date=August 2015|title=Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 301 acute and chronic diseases and injuries in 188 countries, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013|journal=Lancet|volume=386|issue=9995|pages=743–800|doi=10.1016/s0140-6736(15)60692-4|pmc=4561509|pmid=26063472}}</ref> Năm 2015 có khoảng 42,4 &nbsp; hàng triệu người trước đây bị đột quỵ và vẫn còn sống.<ref name="GBD2015Pre">{{Chú thích tạp chí|last=GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators|date=October 2016|title=Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015|journal=Lancet|volume=388|issue=10053|pages=1545–1602|doi=10.1016/S0140-6736(16)31678-6|pmc=5055577|pmid=27733282}}</ref> Từ năm 1990 đến 2010, số lượng đột quỵ xảy ra mỗi năm giảm khoảng 10% ở các nước [[Nước công nghiệp|phát triển]] và tăng 10% ở các nước đang phát triển.<ref name="Fei2013" /> Năm 2015, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thường gặp thứ hai sau [[bệnh động mạch vành]], chiếm 6,3 &nbsp; triệu người chết (11% tổng số).<ref name="GBD2015De">{{Chú thích tạp chí|last=GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators|date=October 2016|title=Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015|journal=Lancet|volume=388|issue=10053|pages=1459–1544|doi=10.1016/S0140-6736(16)31012-1|pmc=5388903|pmid=27733281}}</ref> Khoảng 3,0 triệu ca tử vong do đột quỵ do thiếu máu cục bộ trong khi 3,3 triệu ca tử vong do đột quỵ do xuất huyết.<ref name="GBD2015De" /> Khoảng một nửa số người bị đột quỵ sống được dưới một năm.<ref name="Donnan2008"/> Nhìn chung, hai phần ba đột quỵ xảy ra ở những người trên 65 tuổi.<ref name="Fei2013">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Feigin VL, Forouzanfar MH, Krishnamurthi R, Mensah GA, Connor M, Bennett DA, Moran AE, Sacco RL, Anderson L, Truelsen T, O'Donnell M, Venketasubramanian N, Barker-Collo S, Lawes CM, Wang W, Shinohara Y, Witt E, Ezzati M, Naghavi M, Murray C|date=January 2014|title=Global and regional burden of stroke during 1990-2010: findings from the Global Burden of Disease Study 2010|journal=Lancet|volume=383|issue=9913|pages=245–54|doi=10.1016/S0140-6736(13)61953-4|pmc=4181600|pmid=24449944}}</ref>


Ở Việt Nam, hiện tại (2018) hằng năm có khoảng 230.000 ca mới.<ref>[http://plo.vn/suc-khoe/230000-nguoi-viet-bi-dot-quy-moi-nam-762877.html 230.000 người Việt bị đột quỵ mỗi năm], plo.vn, 2.4.2018</ref>
Ở Việt Nam, theo số liệu 2018, hằng năm có khoảng 230.000 ca mới.<ref>[http://plo.vn/suc-khoe/230000-nguoi-viet-bi-dot-quy-moi-nam-762877.html 230.000 người Việt bị đột quỵ mỗi năm], plo.vn, 2.4.2018</ref>

== Phân loại ==
[[Tập tin:Ischemic_Stroke.svg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Ischemic_Stroke.svg|nhỏ|Có hai loại tai biến chính. Thiếu máu cục bộ (trên cùng), thường do cục máu đông trong động mạch (1a) dẫn đến chết não ở vùng bị ảnh hưởng (2a). Xuất huyết (đáy), do máu rò rỉ vào hoặc xung quanh não từ mạch máu bị vỡ (1b) cho phép máu đọng lại ở vùng bị ảnh hưởng (2b), do đó làm tăng áp lực lên não.]]
[[Tập tin:MCA-Stroke-Brain-Human-2.JPG|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:MCA-Stroke-Brain-Human-2.JPG|nhỏ|Một lát cắt não từ cuộc khám nghiệm tử thi của một người bị đột quỵ cấp tính [[Động mạch não giữa|động mạch não giữa (MCA)]]]]
Tai biến mạch máu não có thể được phân thành hai loại chính: [[thiếu máu cục bộ]] và [[Chảy máu|xuất huyết]] . <ref>{{Chú thích web|url=http://www.ninds.nih.gov/disorders/stroke/preventing_stroke.htm|tựa đề=Brain Basics: Preventing Stroke|nhà xuất bản=National Institute of Neurological Disorders and Stroke|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20091008203200/http://www.ninds.nih.gov/disorders/stroke/preventing_stroke.htm|ngày lưu trữ=2009-10-08|ngày truy cập=2009-10-24}}</ref> Đột quỵ do thiếu máu cục bộ là do [[Tưới máu|nguồn cung cấp máu]] lên não [[Tưới máu|bị gián đoạn]], trong khi đột quỵ do xuất huyết là do vỡ [[mạch máu]] hoặc [[Dị dạng động mạch não|cấu trúc mạch máu bất thường]] . Khoảng 87% trường hợp đột quỵ là do thiếu máu cục bộ, phần còn lại là xuất huyết. Chảy máu có thể phát triển bên trong các khu vực thiếu máu cục bộ, một tình trạng được gọi là "biến đổi xuất huyết". Không biết có bao nhiêu đột quỵ xuất huyết thực sự bắt đầu như đột quỵ do thiếu máu cục bộ. <ref name="Donnan20082">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM|date=May 2008|title=Stroke|journal=Lancet|volume=371|issue=9624|pages=1612–23|doi=10.1016/S0140-6736(08)60694-7|pmid=18468545}}{{Cần đăng ký mua}}</ref>

=== Định nghĩa ===
Vào những năm 1970, [[Tổ chức Y tế Thế giới|Tổ chức Y tế Thế giới đã]] định nghĩa đột quỵ là "tình trạng thiếu hụt thần kinh do mạch máu não gây ra kéo dài hơn 24 giờ hoặc bị gián đoạn do tử vong trong vòng 24 giờ", <ref>{{Chú thích sách|title=Cerebrovascular Disorders (Offset Publications)|last=World Health Organisation|publisher=[[World Health Organization]]|year=1978|isbn=978-92-4-170043-6|location=Geneva|pages=|doi=|oclc=4757533}}</ref> mặc dù từ "đột quỵ" đã có từ nhiều thế kỷ trước. Định nghĩa này được cho là để phản ánh khả năng hồi phục của tổn thương mô và được đưa ra nhằm mục đích, với khung thời gian 24 giờ được chọn tùy ý. Giới hạn 24 giờ phân chia đột quỵ với [[cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua]], là một hội chứng liên quan đến các triệu chứng đột quỵ sẽ giải quyết hoàn toàn trong vòng 24 giờ. <ref name="Donnan20083">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM|date=May 2008|title=Stroke|journal=Lancet|volume=371|issue=9624|pages=1612–23|doi=10.1016/S0140-6736(08)60694-7|pmid=18468545}}{{Cần đăng ký mua}}</ref> Với sự sẵn có của các phương pháp điều trị có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của đột quỵ khi được đưa ra sớm, nhiều người hiện nay ưa thích các thuật ngữ thay thế, chẳng hạn như đau não và hội chứng mạch máu não thiếu máu cục bộ cấp tính (mô phỏng theo [[Nhồi máu cơ tim|cơn đau tim]] và [[Hội chứng mạch vành cấp tính|hội chứng mạch vành cấp]], tương ứng), để phản ánh mức độ khẩn cấp của các triệu chứng đột quỵ và nhu cầu hành động nhanh chóng. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Kidwell CS, Warach S|date=December 2003|title=Acute ischemic cerebrovascular syndrome: diagnostic criteria|journal=Stroke|volume=34|issue=12|pages=2995–8|doi=10.1161/01.STR.0000098902.69855.A9|pmid=14605325|doi-access=free}}</ref>

=== Thiếu máu cục bộ ===
Trong đột quỵ do thiếu máu cục bộ, lượng máu cung cấp cho một phần não bị giảm, dẫn đến rối loạn chức năng của mô não ở khu vực đó. Có bốn lý do tại sao điều này có thể xảy ra:

# [[Huyết khối]] (tắc nghẽn mạch máu do cục máu đông hình thành cục bộ)
# [[Thuyên tắc|Thuyên tắc mạch]] (tắc nghẽn do [[Embolus|tắc mạch]] từ nơi khác trong cơ thể), <ref name="Donnan20084">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM|date=May 2008|title=Stroke|journal=Lancet|volume=371|issue=9624|pages=1612–23|doi=10.1016/S0140-6736(08)60694-7|pmid=18468545}}{{Cần đăng ký mua}}</ref>
# Giảm tưới máu toàn thân (giảm cung cấp máu nói chung, ví dụ như [[Sốc tuần hoàn|sốc]] ) <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Shuaib A, Hachinski VC|date=September 1991|title=Mechanisms and management of stroke in the elderly|journal=CMAJ|volume=145|issue=5|pages=433–43|pmc=1335826|pmid=1878825}}</ref>
# [[Huyết khối xoang tĩnh mạch não]] . <ref name="Stam2005">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Stam J|date=April 2005|title=Thrombosis of the cerebral veins and sinuses|url=http://dare.uva.nl/personal/pure/en/publications/thrombosis-of-the-cerebral-veins-and-sinuses(86f1380e-2fad-4435-8086-29c69dec3300).html|journal=The New England Journal of Medicine|volume=352|issue=17|pages=1791–8|doi=10.1056/NEJMra042354|pmid=15858188}}</ref>

Đột quỵ mà không có lời giải thích rõ ràng được gọi là [[Bệnh vô căn|cryptogenic]] (không rõ nguồn gốc); các ca này chiếm 30-40% tổng số đột quỵ do thiếu máu cục bộ. <ref name="Donnan20085">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM|date=May 2008|title=Stroke|journal=Lancet|volume=371|issue=9624|pages=1612–23|doi=10.1016/S0140-6736(08)60694-7|pmid=18468545}}{{Cần đăng ký mua}}</ref> <ref name="Guercini">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Guercini F, Acciarresi M, Agnelli G, Paciaroni M|date=April 2008|title=Cryptogenic stroke: time to determine aetiology|journal=Journal of Thrombosis and Haemostasis|volume=6|issue=4|pages=549–54|doi=10.1111/j.1538-7836.2008.02903.x|pmid=18208534}}</ref>

Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau cho đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính. Phân loại của Dự án Đột quỵ Cộng đồng Oxford (OCSP, còn được gọi là phân loại Bamford hoặc Oxford) chủ yếu dựa vào các triệu chứng ban đầu; Dựa trên mức độ của các triệu chứng, cơn đột quỵ được phân loại là [[Tổng số nhồi máu tuần hoàn trước|nhồi máu]] [[Nhồi máu một phần tuần hoàn trước|toàn bộ tuần hoàn trước]] (TACI), [[Nhồi máu Lacunar|nhồi máu]] [[Nhồi máu một phần tuần hoàn trước|một phần tuần hoàn trước]] (PACI), [[Nhồi máu Lacunar|nhồi máu tuyến lệ]] (LACI) hoặc [[nhồi máu tuần hoàn sau]] (POCI). Bốn thực thể này dự đoán mức độ đột quỵ, vùng não bị ảnh hưởng, nguyên nhân cơ bản và tiên lượng. <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bamford J, Sandercock P, Dennis M, Burn J, Warlow C|date=June 1991|title=Classification and natural history of clinically identifiable subtypes of cerebral infarction|journal=The Lancet|volume=337|issue=8756|pages=1521–6|doi=10.1016/0140-6736(91)93206-O|pmid=1675378}} Later publications distinguish between "syndrome" and "infarct", based on evidence from imaging. "Syndrome" may be replaced by "hemorrhage" if imaging demonstrates a bleed. See {{Chú thích web|url=http://www.strokecenter.org/trials/scales/oxford.html|tựa đề=Oxford Stroke Scale|tác giả=Internet Stroke Center|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20081025134133/http://www.strokecenter.org/trials/scales/oxford.html|ngày lưu trữ=2008-10-25|ngày truy cập=2008-11-14}}</ref> <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Bamford JM|year=2000|title=The role of the clinical examination in the subclassification of stroke|journal=Cerebrovascular Diseases|volume=10 Suppl 4|issue=4|pages=2–4|doi=10.1159/000047582|pmid=11070389}}</ref> Phân loại TOAST (Thử nghiệm [[Danaparoid|Tổ chức 10172]] trong Điều trị Đột quỵ Cấp tính) dựa trên các triệu chứng lâm sàng cũng như kết quả của các cuộc điều tra thêm; trên cơ sở này, đột quỵ được phân loại là do (1) huyết khối hoặc tắc mạch do [[xơ vữa động mạch]] lớn, (2) tắc mạch bắt nguồn từ [[tim]], (3) tắc nghẽn hoàn toàn mạch máu nhỏ, (4) nguyên nhân xác định khác, (5) nguyên nhân chưa xác định (hai nguyên nhân có thể, không xác định được nguyên nhân hoặc điều tra chưa đầy đủ). <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Adams HP, Bendixen BH, Kappelle LJ, Biller J, Love BB, Gordon DL, Marsh EE|date=January 1993|title=Classification of subtype of acute ischemic stroke. Definitions for use in a multicenter clinical trial. TOAST. Trial of Org 10172 in Acute Stroke Treatment|url=http://stroke.ahajournals.org/cgi/pmidlookup?view=long&pmid=7678184|journal=Stroke|volume=24|issue=1|pages=35–41|doi=10.1161/01.STR.24.1.35|pmid=7678184|doi-access=free}}{{Liên kết hỏng}}</ref> [[Sử dụng thuốc giải trí|Người sử dụng]] các [[chất kích thích]] như [[Cocain|cocaine]] và [[Ma túy đá|methamphetamine]] có nguy cơ cao bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ. <ref>{{Chú thích web|url=http://www.medpagetoday.com/Neurology/Strokes/4761|tựa đề=Methamphetamine induced ischemic strokes|tác giả=Osterweil|tên=Neil|ngày=2006-12-26|nhà xuất bản=Medpagetoday|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20131213133426/http://www.medpagetoday.com/Neurology/Strokes/4761|ngày lưu trữ=13 December 2013|ngày truy cập=24 August 2013}}</ref>

=== Xuất huyết ===
[[Tập tin:Parachemableedwithedema.png|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Parachemableedwithedema.png|nhỏ|[[Chụp cắt lớp vi tính|Chụp CT]] cho thấy chảy máu trong nhu mô (mũi tên dưới) với phù nề xung quanh (mũi tên trên)]]
Có hai loại đột quỵ xuất huyết chính: <ref>{{Chú thích web|url=http://www.stroke.org/understand-stroke/what-stroke/hemorrhagic-stroke|tựa đề=Hemorrhagic stroke|tác giả=Anonymous|ngày=2014-07-29|nhà xuất bản=National Stroke Association|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160627175524/http://www.stroke.org/understand-stroke/what-stroke/hemorrhagic-stroke|ngày lưu trữ=27 June 2016|ngày truy cập=30 June 2016}}</ref> <ref>{{Chú thích web|url=https://www.cdc.gov/stroke/types_of_stroke.htm|tựa đề=Types of Stroke|tác giả=Anonymous|ngày=6 December 2013|website=www.cdc.gov|nhà xuất bản=Centers of Disease Control and Prevention|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160627061518/http://www.cdc.gov/stroke/types_of_stroke.htm|ngày lưu trữ=27 June 2016|ngày truy cập=30 June 2016}}</ref>

* [[Xuất huyết não|Xuất huyết trong não]], về cơ bản là chảy máu trong chính não (khi một động mạch não bị vỡ, tràn máu vào các mô xung quanh), do [[Xuất huyết trong nhu mô|xuất]] huyết trong nhu mô (chảy máu trong mô não) hoặc [[Xuất huyết trong não thất|xuất huyết não thất]] (chảy máu trong [[Hệ thống não thất|hệ thống]] não [[Hệ thống não thất|thất]] của não ).
* [[Xuất huyết dưới màng nhện|Xuất huyết dưới nhện]], về cơ bản là chảy máu xảy ra bên ngoài mô não nhưng vẫn trong hộp sọ, và chính xác là giữa [[Trường cũ|màng nhện]] và [[Trường cũ|màng mềm]] (lớp ''trong cùng'' mỏng manh của ba lớp [[màng não]] bao quanh não).

Hai dạng đột quỵ xuất huyết chính trên đây cũng là hai dạng khác nhau của [[Xuât huyêt nội sọ|xuất huyết nội sọ]], đó là sự tích tụ của máu ở bất cứ vị trí nào trong [[Hầm sọ|vòm sọ]] ; nhưng các hình thức khác của xuất huyết nội sọ, như [[tụ máu ngoài màng cứng]] (chảy máu giữa hộp sọ và [[Trường cũ|màng cứng]], đó là lớp ''ngoài cùng'' dày của màng não bao quanh não) và [[tụ máu dưới màng cứng]] (chảy máu trong [[Không gian con|không gian dưới màng cứng]] ), không được coi "đột quỵ xuất huyết". <ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Al-Shahi Salman R, Labovitz DL, Stapf C|date=July 2009|title=Spontaneous intracerebral haemorrhage|journal=BMJ|volume=339|issue=jul24 1|pages=b2586|doi=10.1136/bmj.b2586|pmid=19633038}}</ref>

Đột quỵ xuất huyết có thể xảy ra trên nền của những thay đổi đối với mạch máu trong não, chẳng hạn như [[Bệnh mạch máu não tích tụ amyloid|bệnh mạch máu não]], [[dị dạng động mạch não]] và [[chứng phình động mạch nội sọ]], có thể gây xuất huyết trong nhu mô hoặc dưới nhện.{{Cần chú thích|date=June 2016}}

Ngoài suy giảm chức năng thần kinh, đột quỵ xuất huyết thường gây ra các triệu chứng cụ thể (ví dụ, xuất huyết dưới nhện cổ điển gây ra [[đau đầu]] dữ dội được gọi là [[Đau đầu liên tục|đau đầu sấm sét]] ) hoặc tiết lộ bằng chứng của [[chấn thương đầu]] trước đó.


==Dịch tễ học==
==Dịch tễ học==
Dòng 22: Dòng 55:
Theo thống kê tại Đức 2006, 65.133 người chết vì tai biến mạch máu não, 7,9 % tổng số người chết.<ref>Neuere Daten auf destatis.de: [https://www.destatis.de/DE/Publikationen/Thematisch/Gesundheit/Todesursachen/Todesursachenstatistik.html Publikationen im Bereich Todesursachen]</ref> Ngoài ra bệnh này là nguyên nhân đưa đến tàn tật trung và nặng. 51 % tất cả các đột quỵ não xảy ra ở tuổi trên 75. Càng già thì nguy cơ bị tai biến càng tăng cao.<ref>[[Ludwig-Maximilians-Universität München]] Dissertation, E. Rupp, 2. Juli 2010: [https://edoc.ub.uni-muenchen.de/15751/1/Rupp_Eckart.pdf Fortschritte in Behandlung und Diagnostik zentraler neurogener Sprachstörungen]</ref>
Theo thống kê tại Đức 2006, 65.133 người chết vì tai biến mạch máu não, 7,9 % tổng số người chết.<ref>Neuere Daten auf destatis.de: [https://www.destatis.de/DE/Publikationen/Thematisch/Gesundheit/Todesursachen/Todesursachenstatistik.html Publikationen im Bereich Todesursachen]</ref> Ngoài ra bệnh này là nguyên nhân đưa đến tàn tật trung và nặng. 51 % tất cả các đột quỵ não xảy ra ở tuổi trên 75. Càng già thì nguy cơ bị tai biến càng tăng cao.<ref>[[Ludwig-Maximilians-Universität München]] Dissertation, E. Rupp, 2. Juli 2010: [https://edoc.ub.uni-muenchen.de/15751/1/Rupp_Eckart.pdf Fortschritte in Behandlung und Diagnostik zentraler neurogener Sprachstörungen]</ref>


==Nguyên Nhân==
==Nguyên nhân==
*Gây nghẽn hoặc/ tắc mạch máu não: cục máu đông tại chỗ của động mạch não, thuyên tắc do [[xơ vữa động mạch]] (chẳng hạn xuất phát từ động mạch cảnh), huyết tắc do bệnh tim (thí dụ rung nhĩ, nhồi máu cơ tim).
*Gây nghẽn hoặc/ tắc mạch máu não: cục máu đông tại chỗ của động mạch não, thuyên tắc do [[xơ vữa động mạch]] (chẳng hạn xuất phát từ động mạch cảnh), huyết tắc do bệnh tim (thí dụ rung nhĩ, nhồi máu cơ tim).
*Gây vỡ mạch máu não: [[tăng huyết áp]], chấn thương, vỡ [[phình động mạch não]].
*Gây vỡ mạch máu não: [[tăng huyết áp]], chấn thương, vỡ [[phình động mạch não]].

Phiên bản lúc 12:37, ngày 1 tháng 11 năm 2020

Tai biến mạch máu não
Hình của một vụ nhồi máu não, cho thấy một mạch máu bị nghẽn.
Chuyên khoathần kinh học, Phẫu thuật thần kinh
Tần suấtLỗi Lua trong Mô_đun:PrevalenceData tại dòng 28: attempt to perform arithmetic on field 'lowerBound' (a nil value).
ICD-10I61-I64
ICD-9-CM435-436
Patient UKTai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não hay đột quỵ là một tình trạng y tế trong đó lưu lượng máu đến não giảm đi dẫn đến việc chết tế bào.[1] Có hai loại đột quỵ chính: thiếu máu cục bộ, do thiếu lưu lượng máu và xuất huyết, do chảy máu.[1] Cả hai kết quả là các phần của não không hoạt động được.[1] Các dấu hiệu và triệu chứng của đột quỵ có thể bao gồm không có khả năng di chuyển hoặc cảm giác ở một bên của cơ thể, có vấn đề hiểu hoặc nói, chóng mặt hoặc mất thị lực sang một bên.[2][3] Các dấu hiệu và triệu chứng thường xuất hiện ngay sau khi đột quỵ xảy ra.[3] Nếu các triệu chứng kéo dài dưới một hoặc hai giờ, nó được gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA) hoặc đột quỵ nhỏ.[3] Đột quỵ xuất huyết cũng có thể liên quan đến đau đầu dữ dội.[3] Các triệu chứng của đột quỵ có thể là vĩnh viễn.[1] Các biến chứng lâu dài có thể bao gồm viêm phổi hoặc mất kiểm soát bàng quang.[3]

Yếu tố nguy cơ chính của đột quỵ là huyết áp cao.[4] Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm hút thuốc lá, béo phì, cholesterol trong máu cao, đái tháo đường, TIA trước đó và rung tâm nhĩ.[2][4] Đột quỵ do thiếu máu cục bộ thường gây ra do tắc nghẽn mạch máu, mặc dù cũng có những nguyên nhân ít phổ biến hơn.[5][6][7] Đột quỵ xuất huyết là do chảy máu trực tiếp vào não hoặc vào khoảng trống giữa màng não.[5][8] Chảy máu có thể xảy ra do phình động mạch não bị vỡ.[5] Chẩn đoán thường dựa trên khám thực thể và được hỗ trợ bằng hình ảnh y tế như chụp CT hoặc quét MRI.[9] Chụp CT có thể loại trừ chảy máu, nhưng có thể không nhất thiết loại trừ thiếu máu cục bộ, mà sớm không thường xuất hiện trên CT scan.[10] Các xét nghiệm khác như một điện tâm đồ (ECG) và xét nghiệm máu được thực hiện để xác định các yếu tố nguy cơ và loại trừ nguyên nhân có thể khác.[9] Lượng đường trong máu thấp có thể gây ra các triệu chứng tương tự.[9]

Phòng ngừa bệnh này bao gồm việc giảm các yếu tố nguy cơ, cũng như có thể là aspirin, statin, phẫu thuật để mở các động mạch lên não ở những người bị hẹp có vấn đề và warfarin ở những người bị rung tâm nhĩ.[2] Đột quỵ hoặc TIA thường yêu cầu chăm sóc khẩn cấp.[1] Đột quỵ do thiếu máu cục bộ, nếu được phát hiện trong vòng ba đến bốn giờ rưỡi, có thể được điều trị bằng thuốc có thể phá vỡ cục máu đông.[2] Bác sĩ khuyến cáo nên sử dụng Aspirin.[2] Một số đột quỵ xuất huyết được hưởng lợi từ phẫu thuật.[2] Điều trị để cố gắng phục hồi chức năng bị mất được gọi là phục hồi đột quỵ và lý tưởng nhất là diễn ra trong một đơn vị chữa đột quỵ; tuy nhiên, những thứ này không có sẵn ở nhiều nơi trên thế giới.[2]

Trong năm 2013, khoảng 6,9 triệu người bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ và 3,4 triệu người bị đột quỵ do xuất huyết.[11] Năm 2015 có khoảng 42,4   hàng triệu người trước đây bị đột quỵ và vẫn còn sống.[12] Từ năm 1990 đến 2010, số lượng đột quỵ xảy ra mỗi năm giảm khoảng 10% ở các nước phát triển và tăng 10% ở các nước đang phát triển.[13] Năm 2015, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thường gặp thứ hai sau bệnh động mạch vành, chiếm 6,3   triệu người chết (11% tổng số).[14] Khoảng 3,0 triệu ca tử vong do đột quỵ do thiếu máu cục bộ trong khi 3,3 triệu ca tử vong do đột quỵ do xuất huyết.[14] Khoảng một nửa số người bị đột quỵ sống được dưới một năm.[2] Nhìn chung, hai phần ba đột quỵ xảy ra ở những người trên 65 tuổi.[13]

Ở Việt Nam, theo số liệu 2018, hằng năm có khoảng 230.000 ca mới.[15]

Phân loại

Có hai loại tai biến chính. Thiếu máu cục bộ (trên cùng), thường do cục máu đông trong động mạch (1a) dẫn đến chết não ở vùng bị ảnh hưởng (2a). Xuất huyết (đáy), do máu rò rỉ vào hoặc xung quanh não từ mạch máu bị vỡ (1b) cho phép máu đọng lại ở vùng bị ảnh hưởng (2b), do đó làm tăng áp lực lên não.
Một lát cắt não từ cuộc khám nghiệm tử thi của một người bị đột quỵ cấp tính động mạch não giữa (MCA)

Tai biến mạch máu não có thể được phân thành hai loại chính: thiếu máu cục bộxuất huyết . [16] Đột quỵ do thiếu máu cục bộ là do nguồn cung cấp máu lên não bị gián đoạn, trong khi đột quỵ do xuất huyết là do vỡ mạch máu hoặc cấu trúc mạch máu bất thường . Khoảng 87% trường hợp đột quỵ là do thiếu máu cục bộ, phần còn lại là xuất huyết. Chảy máu có thể phát triển bên trong các khu vực thiếu máu cục bộ, một tình trạng được gọi là "biến đổi xuất huyết". Không biết có bao nhiêu đột quỵ xuất huyết thực sự bắt đầu như đột quỵ do thiếu máu cục bộ. [17]

Định nghĩa

Vào những năm 1970, Tổ chức Y tế Thế giới đã định nghĩa đột quỵ là "tình trạng thiếu hụt thần kinh do mạch máu não gây ra kéo dài hơn 24 giờ hoặc bị gián đoạn do tử vong trong vòng 24 giờ", [18] mặc dù từ "đột quỵ" đã có từ nhiều thế kỷ trước. Định nghĩa này được cho là để phản ánh khả năng hồi phục của tổn thương mô và được đưa ra nhằm mục đích, với khung thời gian 24 giờ được chọn tùy ý. Giới hạn 24 giờ phân chia đột quỵ với cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, là một hội chứng liên quan đến các triệu chứng đột quỵ sẽ giải quyết hoàn toàn trong vòng 24 giờ. [19] Với sự sẵn có của các phương pháp điều trị có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của đột quỵ khi được đưa ra sớm, nhiều người hiện nay ưa thích các thuật ngữ thay thế, chẳng hạn như đau não và hội chứng mạch máu não thiếu máu cục bộ cấp tính (mô phỏng theo cơn đau timhội chứng mạch vành cấp, tương ứng), để phản ánh mức độ khẩn cấp của các triệu chứng đột quỵ và nhu cầu hành động nhanh chóng. [20]

Thiếu máu cục bộ

Trong đột quỵ do thiếu máu cục bộ, lượng máu cung cấp cho một phần não bị giảm, dẫn đến rối loạn chức năng của mô não ở khu vực đó. Có bốn lý do tại sao điều này có thể xảy ra:

  1. Huyết khối (tắc nghẽn mạch máu do cục máu đông hình thành cục bộ)
  2. Thuyên tắc mạch (tắc nghẽn do tắc mạch từ nơi khác trong cơ thể), [21]
  3. Giảm tưới máu toàn thân (giảm cung cấp máu nói chung, ví dụ như sốc ) [22]
  4. Huyết khối xoang tĩnh mạch não . [23]

Đột quỵ mà không có lời giải thích rõ ràng được gọi là cryptogenic (không rõ nguồn gốc); các ca này chiếm 30-40% tổng số đột quỵ do thiếu máu cục bộ. [24] [25]

Có nhiều hệ thống phân loại khác nhau cho đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính. Phân loại của Dự án Đột quỵ Cộng đồng Oxford (OCSP, còn được gọi là phân loại Bamford hoặc Oxford) chủ yếu dựa vào các triệu chứng ban đầu; Dựa trên mức độ của các triệu chứng, cơn đột quỵ được phân loại là nhồi máu toàn bộ tuần hoàn trước (TACI), nhồi máu một phần tuần hoàn trước (PACI), nhồi máu tuyến lệ (LACI) hoặc nhồi máu tuần hoàn sau (POCI). Bốn thực thể này dự đoán mức độ đột quỵ, vùng não bị ảnh hưởng, nguyên nhân cơ bản và tiên lượng. [26] [27] Phân loại TOAST (Thử nghiệm Tổ chức 10172 trong Điều trị Đột quỵ Cấp tính) dựa trên các triệu chứng lâm sàng cũng như kết quả của các cuộc điều tra thêm; trên cơ sở này, đột quỵ được phân loại là do (1) huyết khối hoặc tắc mạch do xơ vữa động mạch lớn, (2) tắc mạch bắt nguồn từ tim, (3) tắc nghẽn hoàn toàn mạch máu nhỏ, (4) nguyên nhân xác định khác, (5) nguyên nhân chưa xác định (hai nguyên nhân có thể, không xác định được nguyên nhân hoặc điều tra chưa đầy đủ). [28] Người sử dụng các chất kích thích như cocainemethamphetamine có nguy cơ cao bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ. [29]

Xuất huyết

Chụp CT cho thấy chảy máu trong nhu mô (mũi tên dưới) với phù nề xung quanh (mũi tên trên)

Có hai loại đột quỵ xuất huyết chính: [30] [31]

Hai dạng đột quỵ xuất huyết chính trên đây cũng là hai dạng khác nhau của xuất huyết nội sọ, đó là sự tích tụ của máu ở bất cứ vị trí nào trong vòm sọ ; nhưng các hình thức khác của xuất huyết nội sọ, như tụ máu ngoài màng cứng (chảy máu giữa hộp sọ và màng cứng, đó là lớp ngoài cùng dày của màng não bao quanh não) và tụ máu dưới màng cứng (chảy máu trong không gian dưới màng cứng ), không được coi "đột quỵ xuất huyết". [32]

Đột quỵ xuất huyết có thể xảy ra trên nền của những thay đổi đối với mạch máu trong não, chẳng hạn như bệnh mạch máu não, dị dạng động mạch nãochứng phình động mạch nội sọ, có thể gây xuất huyết trong nhu mô hoặc dưới nhện.[cần dẫn nguồn]

Ngoài suy giảm chức năng thần kinh, đột quỵ xuất huyết thường gây ra các triệu chứng cụ thể (ví dụ, xuất huyết dưới nhện cổ điển gây ra đau đầu dữ dội được gọi là đau đầu sấm sét ) hoặc tiết lộ bằng chứng của chấn thương đầu trước đó.

Dịch tễ học

Thống kê

Theo thống kê tại Đức 2006, 65.133 người chết vì tai biến mạch máu não, 7,9 % tổng số người chết.[33] Ngoài ra bệnh này là nguyên nhân đưa đến tàn tật trung và nặng. 51 % tất cả các đột quỵ não xảy ra ở tuổi trên 75. Càng già thì nguy cơ bị tai biến càng tăng cao.[34]

Nguyên nhân

  • Gây nghẽn hoặc/ tắc mạch máu não: cục máu đông tại chỗ của động mạch não, thuyên tắc do xơ vữa động mạch (chẳng hạn xuất phát từ động mạch cảnh), huyết tắc do bệnh tim (thí dụ rung nhĩ, nhồi máu cơ tim).
  • Gây vỡ mạch máu não: tăng huyết áp, chấn thương, vỡ phình động mạch não.
  • Nguyên nhân ít gặp: giảm huyết áp (tụt huyết áp đột ngột hơn 40 mm Hg), viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch, thuyên tắc xoang tĩnh mạch. Ở người trẻ: bệnh tiểu cầu, chảy máu dưới màng nhện, dị dạng động mạch cảnh.

Yếu tố nguy cơ

Tăng huyết áp, hút thuốc lá, đái tháo đường, một số bệnh tim (bệnh van tim, thiếu máu cơ tim, rung nhĩ), bệnh mạch máu ngoại biên, tiền căn thiếu máu cục bộ thoáng qua, tăng thể tích hồng cầu, phụ nữ vừa hút thuốc lá vừa dùng thuốc tránh thai nội tiết tố, tăng chất béo trong máu, lạm dụng thức uống có cồn (rượu, bia), rối loạn chức năng đông máu.

Triệu chứng lâm sàng

Biểu hiện lâm sàng do nghẽn / tắc mạch hoặc do vỡ mạch khó có thể phân biệt, để chẩn đoán nguyên nhân phải dựa vào các yếu tố tiền căn, bệnh có sẵn và xét nghiệm cận lâm sàng (MRI, CT scan: là phương pháp dùng các đầu phát tia X chạy xung quanh cơ thể bệnh nhân kết hợp với một máy tính sẽ thu được hình ảnh các lớp cắt cơ thể khi xử lý qua máy tính).

Trong trường hợp điển hình, các triệu chứng xuất hiện đột ngột, tiến triển chỉ trong vài giờ (hoặc vài ngày). Trên lý thuyết, các triệu chứng thần kinh khu trú tương ứng với khu vực tưới máu của động mạch bị tổn thương, tuy nhiên do các động mạch thông nối với nhau nên có sự cấp máu bù bởi các động mạch còn nguyên, làm nhòe các triệu chứng.

Tổn thương trong bán cầu đại não (50 % các trường hợp) có thể gây ra: liệt đối bên, khởi đầu là liệt mềm, dần dần diễn tiến đến liệt cứng; giảm cảm giác đối bên; giảm thị lực cùng bên; nói khó.

Tổn thương thân não (25 %): triệu chứng đa dạng, có thể gây liệt tứ chi, rối loạn thị giác, hội chứng khóa trong (tỉnh, hiểu nhưng do liệt, không làm gì được).

Tổn thương khiếm khuyết (25 %): nhiều điểm nhồi máu nhỏ quanh hạch nền, bao trong, đồi thịcầu não. Người bệnh vẫn ý thức, các triệu chứng có thể chỉ liên quan tới vận động hoặc cảm giác hoặc cả hai, có khi có triệu chứng thất điều.

Diễn tiến

Khoảng 20 % tử vong trong vòng 1 tháng, 5 % – 10 % trong vòng 1 năm. Khoảng 10 % hồi phục không di chứng, 25-30% tự đi lại phục vụ bản thân được, 20-25% đi lại khó khăn, cần sự hỗ trợ của người khác trong sinh hoạt, 15-25% phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Tiên lượng xấu nếu có các triệu chứng: giảm ý thức, tăng tiết đờm dãi, sốt cao ngay từ ngày đầu.

Chẩn đoán phân biệt

U não, chảy máu dưới màng cứng, liệt Todd (hội chứng thần kinh khu trú sau động kinh, hồi phục trong vòng 24 giờ). Ngộ độc do dùng thuốc quá liều, nhất là khi có triệu chứng mất tri giác.

Biến chứng, di chứng

Viêm phổi, trầm cảm, co cứng, táo bón, loét do nằm lâu, liệt nửa người, tiểu tiện không tự chủ, co cứng cơ.

Xử trí

Cần phải đưa người bệnh vào viện để được chẩn đoán và điều trị thích hợp. Đối với người bị tai biến, thời gian là vàng, mạch máu đông hoặc vỡ phải được xử lý thật nhanh để đề phòng các biến chứng như liệt toàn thân, bại não, v.v. Khi người có các triệu chứng sau cần phải chú ý và đưa đến bệnh viện ngay lập tức:

Các triệu chứng xảy ra đột ngột

  • Đột ngột thấy tê cứng ở mặt, tay hoặc chân – đặc biệt là tê cứng nửa người
  • Đột ngột nhìn không rõ (Thị lực giảm sút)
  • Đột ngột không cử động được chân tay (Mất phối hợp điều khiển chân tay)
  • Đột ngột không nói được hoặc không hiểu được người khác nói
  • Đầu đau dữ dội

Phụ nữ có thể có các biểu hiện đặc trưng sau:

  • Đột ngột đau ở mặt hoặc chân
  • Đột ngột bị nấc
  • Đột ngột cảm thấy buồn nôn
  • Đột ngột cảm thấy mệt
  • Đột ngột tức ngực
  • Đột ngột khó thở
  • Tim đập nhanh bất thường

Ghi chú: Chúng tôi nhấn mạnh chữ đột ngột để chỉ các triệu chứng xảy ra bất thường, không do các yếu tố bên ngoài.

Những việc có thể làm trước khi xe cấp cứu tới

  • Quan sát và hỏi bệnh nhân để biết bệnh nhân còn tỉnh táo (ý thức bình thường) hay lẫn lộn, lơ mơ hoặc hôn mê (rối loạn ý thức). Kèm theo dấu hiệu đại tiểu tiện không tự chủ chứng tỏ bệnh nhân đã mất ý thức.
  • Nếu bệnh nhân còn tỉnh: cần để bệnh nhân nằm yên tĩnh và gọi cấp cứu đến để đưa bệnh nhân vào bệnh viện lớn có uy tín về cấp cứu tai biến mạch máu não.
  • Nếu bệnh nhân hôn mê: cần xem bệnh nhân đang còn thở bình thường, thở nhanh, thở chậm, hay đã ngừng thở..., vì cấp cứu hô hấp là việc đầu tiên phải làm để đảm bảo đủ oxy cho tim và cho não. Nếu toàn bộ não thiếu oxy quá 3 phút thì dù cho cấp cứu tim đập lại cũng không cứu được não, y học gọi là mất não, hoặc chết não.
  • Kiểm tra nhịp tim và huyết áp ngay nếu có thể.

Đặc biệt lưu ý với người nhà hoặc người chứng kiến bệnh nhân đột quỵ não:

  • Bệnh nhân đột quỵ não có thể bị một trong hai dạng: chảy máu não do vỡ mạch hoặc nhồi máu não do nghẽn / tắc mạch. Hai bệnh này đối nghịch nhau hoàn toàn về nguyên nhân, cơ chế và cách điều trị. Các bác sĩ chuyên khoa cũng không thể chỉ dựa vào biểu hiện bên ngoài để xác định chẩn đoán. Vì vậy, không được mạo hiểm tự điều trị cho bệnh nhân dù chỉ là các động tác như bấm huyệt nhân trung, châm cứu, đánh gió... Những tác động đó có thể làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh của bệnh nhân mà chúng ta vô tình không biết.
  • Thực hiện hô hấp nhân tạo (CPR), nếu cần phải dùng miệng thổi hơi vào miệng bệnh nhân (hô hấp miệng-miệng) nếu thấy bệnh nhân ngừng thở.
  • KHÔNG ĐƯỢC cố di chuyển đầu, cổ bệnh nhân, trong trường hợp tai nạn, đầu hoặc cổ có thể bị gãy hoặc bị thương. Để bệnh nhân trong tư thế thoải mái. Nới lỏng quần áo.
  • KHÔNG ĐƯỢC cho bệnh nhân ăn hoặc uống. Tai biến khiến cho người bệnh không thể nuốt và sẽ gây nghẹn.
  • KHÔNG ĐƯỢC dùng ax-pi-rin (aspirin). Mặc dù ax-pi-rin có thể làm giảm cục máu đông trong trường hợp tai biến nghẽn / tắc động mạch nhưng cũng có thể gây chảy máu trong nếu là tai biến vỡ mạch máu. Nếu người bệnh đã uống ax-pi-rin trong ngày, cần phải báo với bác sĩ cấp cứu.
  • Thở sâu. Thở chậm và sâu giúp bệnh nhân bình tĩnh và đưa máu lên não nhiều hơn. Để người bệnh nằm xuống và nói chuyện với người bệnh để họ bình tĩnh.
  • Giữ đầu mát và thân ấm. Nếu có đá lạnh, có thể chấm nhẹ qua đầu người bệnh để giữ mát. Bọc đá trong khăn để không quá lạnh. Giữ mát đầu để giảm phản ứng phù nề khi tai biến và có thể giúp người bệnh đỡ cảm thấy đau đầu. Giữ thân ấm bằng áo khoác hoặc chăn sẽ giảm được nguy cơ co giật (sốc).
  • Có thể liên hệ với một trung tâm y tế hoặc với bác sĩ thần kinh để được tư vấn sớm trước khi đưa bệnh nhân đến bệnh viện.

Phòng ngừa

Tai biến mạch máu não hoàn toàn có thể dự đoán trước, với các biện pháp can thiệp kịp thời sẽ tránh bị xảy ra đột quỵ. Mọi người trên 50 tuổi, và có yếu tố nguy cơ đột quỵ cần kiểm tra định kỳ chuyên khoa để biết trước nguy cơ gần xảy ra đột quỵ như sau: - Làm điện tim, siêu âm tim để xác định xem có bị hẹp van hai lá, rung nhĩ, loạn nhịp tim, cục máu quẩn trong tim hay không. - Siêu âm động mạch chủ, động mạch cảnh; siêu âm xuyên sọ để tìm mảng vữa xơ động mạch, phình động mạch, hẹp động mạch. - Chụp cộng hưởng từ mạch máu não(MRA), chụp CT scanner đa lớp cắt dựng mạch máu não hoặc chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) để xác định xem có hẹp mạch máu, phình mạch, dị dạng mạch máu não hay không.

  • Phòng ngừa cấp 1: kiểm soát các yếu tố nguy cơ; điều trị huyết áp, kiểm soát đường huyết, lipid máu; bỏ thuốc lá; dùng thuốc kháng đông trọn đời ở những người bị thấp tim hoặc mang van tim nhân tạo ở bên tim trái. Cân nhắc khả năng dùng thuốc kháng đông ở người bị rung nhĩ mạn tính. Tiến hành đặt stent động mạch cảnh khi hẹp trên 75%, hoặc mổ bóc nội mạc động mạch cảnh, nút coils phình mạch, nút ổ dị dạng động tĩnh mạch (AVM) để tránh nguy cơ nhồi máu não hoặc chảy máu não.
  • Phòng ngừa cấp 2: Tiếp tục kiểm soát các yếu tố nguy cơ. Nếu là tắc mạch máu hoặc rung nhĩ mạn tính, có thể dùng aspirin hoặc warfarin. Tiến hành can thiệp mạch thần kinh khi có hẹp động trên 50%, hoặc phình động mạch não.
  • Công nghệ dự báo chuỗi thời gian bằng mạng nơ-ron nhân tạo còn cho phép dự báo huyết áp của bệnh nhân trong một số ngày tiếp theo căn cứ và số liệu huyết áp của bệnh nhân đó trong quá khứ.
  • Cách phòng ngừa tốt nhất là thường xuyên tập thể dục, bỏ thuốc lá và rượu, bia, ăn nhiều rau quả, thịt gà và cá, bớt ăn thịt đỏ (heo hoặc bò) có nhiều mỡ động vật. Béo phì là một trong những lý do đưa đến máu cao vi mạch máu thường hay bị nghẽn bất ngờ gây đến tai biến mạch máu não

Tham khảo

  1. ^ a b c d e “What Is a Stroke?”. www.nhlbi.nih.gov/. 26 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  2. ^ a b c d e f g h Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM (tháng 5 năm 2008). “Stroke”. Lancet. 371 (9624): 1612–23. doi:10.1016/S0140-6736(08)60694-7. PMID 18468545.(cần đăng ký mua)
  3. ^ a b c d e “What Are the Signs and Symptoms of a Stroke?”. www.nhlbi.nih.gov. 26 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  4. ^ a b “Who Is at Risk for a Stroke?”. www.nhlbi.nih.gov. 26 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  5. ^ a b c “Types of Stroke”. www.nhlbi.nih.gov. 26 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  6. ^ Roos, Karen L. (2012). Emergency Neurology (bằng tiếng Anh). Springer Science & Business Media. tr. 360. ISBN 978-0-387-88584-1. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  7. ^ Wityk, Robert J.; Llinas, Rafael H. (2007). Stroke (bằng tiếng Anh). ACP Press. tr. 296. ISBN 978-1-930513-70-9. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |name-list-format= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  8. ^ Feigin VL, Rinkel GJ, Lawes CM, Algra A, Bennett DA, van Gijn J, Anderson CS (tháng 12 năm 2005). “Risk factors for subarachnoid hemorrhage: an updated systematic review of epidemiological studies”. Stroke. 36 (12): 2773–80. doi:10.1161/01.STR.0000190838.02954.e8. PMID 16282541.
  9. ^ a b c “How Is a Stroke Diagnosed?”. www.nhlbi.nih.gov. 26 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  10. ^ Yew KS, Cheng E (tháng 7 năm 2009). “Acute stroke diagnosis”. American Family Physician. 80 (1): 33–40. PMC 2722757. PMID 19621844.
  11. ^ Global Burden of Disease Study 2013 Collaborators (tháng 8 năm 2015). “Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 301 acute and chronic diseases and injuries in 188 countries, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013”. Lancet. 386 (9995): 743–800. doi:10.1016/s0140-6736(15)60692-4. PMC 4561509. PMID 26063472.
  12. ^ GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators (tháng 10 năm 2016). “Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015”. Lancet. 388 (10053): 1545–1602. doi:10.1016/S0140-6736(16)31678-6. PMC 5055577. PMID 27733282.
  13. ^ a b Feigin VL, Forouzanfar MH, Krishnamurthi R, Mensah GA, Connor M, Bennett DA, Moran AE, Sacco RL, Anderson L, Truelsen T, O'Donnell M, Venketasubramanian N, Barker-Collo S, Lawes CM, Wang W, Shinohara Y, Witt E, Ezzati M, Naghavi M, Murray C (tháng 1 năm 2014). “Global and regional burden of stroke during 1990-2010: findings from the Global Burden of Disease Study 2010”. Lancet. 383 (9913): 245–54. doi:10.1016/S0140-6736(13)61953-4. PMC 4181600. PMID 24449944.
  14. ^ a b GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators (tháng 10 năm 2016). “Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015”. Lancet. 388 (10053): 1459–1544. doi:10.1016/S0140-6736(16)31012-1. PMC 5388903. PMID 27733281.
  15. ^ 230.000 người Việt bị đột quỵ mỗi năm, plo.vn, 2.4.2018
  16. ^ “Brain Basics: Preventing Stroke”. National Institute of Neurological Disorders and Stroke. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2009.
  17. ^ Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM (tháng 5 năm 2008). “Stroke”. Lancet. 371 (9624): 1612–23. doi:10.1016/S0140-6736(08)60694-7. PMID 18468545.(cần đăng ký mua)
  18. ^ World Health Organisation (1978). Cerebrovascular Disorders (Offset Publications). Geneva: World Health Organization. ISBN 978-92-4-170043-6. OCLC 4757533.
  19. ^ Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM (tháng 5 năm 2008). “Stroke”. Lancet. 371 (9624): 1612–23. doi:10.1016/S0140-6736(08)60694-7. PMID 18468545.(cần đăng ký mua)
  20. ^ Kidwell CS, Warach S (tháng 12 năm 2003). “Acute ischemic cerebrovascular syndrome: diagnostic criteria”. Stroke. 34 (12): 2995–8. doi:10.1161/01.STR.0000098902.69855.A9. PMID 14605325.
  21. ^ Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM (tháng 5 năm 2008). “Stroke”. Lancet. 371 (9624): 1612–23. doi:10.1016/S0140-6736(08)60694-7. PMID 18468545.(cần đăng ký mua)
  22. ^ Shuaib A, Hachinski VC (tháng 9 năm 1991). “Mechanisms and management of stroke in the elderly”. CMAJ. 145 (5): 433–43. PMC 1335826. PMID 1878825.
  23. ^ Stam J (tháng 4 năm 2005). “Thrombosis of the cerebral veins and sinuses”. The New England Journal of Medicine. 352 (17): 1791–8. doi:10.1056/NEJMra042354. PMID 15858188.
  24. ^ Donnan GA, Fisher M, Macleod M, Davis SM (tháng 5 năm 2008). “Stroke”. Lancet. 371 (9624): 1612–23. doi:10.1016/S0140-6736(08)60694-7. PMID 18468545.(cần đăng ký mua)
  25. ^ Guercini F, Acciarresi M, Agnelli G, Paciaroni M (tháng 4 năm 2008). “Cryptogenic stroke: time to determine aetiology”. Journal of Thrombosis and Haemostasis. 6 (4): 549–54. doi:10.1111/j.1538-7836.2008.02903.x. PMID 18208534.
  26. ^ Bamford J, Sandercock P, Dennis M, Burn J, Warlow C (tháng 6 năm 1991). “Classification and natural history of clinically identifiable subtypes of cerebral infarction”. The Lancet. 337 (8756): 1521–6. doi:10.1016/0140-6736(91)93206-O. PMID 1675378. Later publications distinguish between "syndrome" and "infarct", based on evidence from imaging. "Syndrome" may be replaced by "hemorrhage" if imaging demonstrates a bleed. See Internet Stroke Center. “Oxford Stroke Scale”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2008.
  27. ^ Bamford JM (2000). “The role of the clinical examination in the subclassification of stroke”. Cerebrovascular Diseases. 10 Suppl 4 (4): 2–4. doi:10.1159/000047582. PMID 11070389.
  28. ^ Adams HP, Bendixen BH, Kappelle LJ, Biller J, Love BB, Gordon DL, Marsh EE (tháng 1 năm 1993). “Classification of subtype of acute ischemic stroke. Definitions for use in a multicenter clinical trial. TOAST. Trial of Org 10172 in Acute Stroke Treatment”. Stroke. 24 (1): 35–41. doi:10.1161/01.STR.24.1.35. PMID 7678184.[liên kết hỏng]
  29. ^ Osterweil, Neil (26 tháng 12 năm 2006). “Methamphetamine induced ischemic strokes”. Medpagetoday. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
  30. ^ Anonymous (29 tháng 7 năm 2014). “Hemorrhagic stroke”. National Stroke Association. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2016.
  31. ^ Anonymous (6 tháng 12 năm 2013). “Types of Stroke”. www.cdc.gov. Centers of Disease Control and Prevention. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2016.
  32. ^ Al-Shahi Salman R, Labovitz DL, Stapf C (tháng 7 năm 2009). “Spontaneous intracerebral haemorrhage”. BMJ. 339 (jul24 1): b2586. doi:10.1136/bmj.b2586. PMID 19633038.
  33. ^ Neuere Daten auf destatis.de: Publikationen im Bereich Todesursachen
  34. ^ Ludwig-Maximilians-Universität München Dissertation, E. Rupp, 2. Juli 2010: Fortschritte in Behandlung und Diagnostik zentraler neurogener Sprachstörungen

Sách tham khảo

  1. Coffey C. Edward, Cummings Jeffrey L, Starkstein Sergio, Robinson Robert. "Stroke". The American Psychiatric Press Textbook of Geriatric Neuropsychiatry, Second Edition. Washington DC: American Psychiatric Press, Inc, 2000. pp. 601–617.
  2. Jauch, Edward C. 2005. "Acute Stroke Management." eMedicine.com, Inc.
  3. Kopito, Jeff. 1996. "A Stroke in Time". MERGINET.com, September 2001, Volume 6 Number 9. Available.
  4. National Institute of Neurological Disorders and Stroke (NINDS). 1999. National Institutes of Health., Stroke: Hope Through Research.
  5. Perry, Thomas and Miller Frank. Pathology: A Dynamic Introduction to Medicine and Surgery. Boston: Little, Brown and Company, 1961.
  6. Senelick Richard C., Rossi, Peter W., Dougherty, Karla. Living with Stroke: A Guide For Families. Contemporary Books, Inc., Chicago IL, 1994.
  7. Stanford Hospital & Clinics. 2005. Cardiovascular Diseases: Effects of Stroke.
  8. Stroke Center of the Washington University School of Medicine.
  9. Thompson, Jesse E. " The Evolution of Surgery for the Treatment and Prevention of Stroke: The Willis Lecture". Stroke. 27:1427-1434.
  10. Villarosa, Linda, Ed., Singleton, LaFayette, MD, Johnson, Kirk A., Black Health Library Guide to Stroke. Henry Holt and Company, New York, 1993.
  11. Finetech Medical...aiding your independence.

Liên kết ngoài

Tiếng Anh: