Alexandre của Bỉ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alexandre của Bỉ
HRH Vương tử Bỉ
Thông tin chung
Sinh(1942-07-18)18 tháng 7 năm 1942
Laeken, Bruxelles,  Bỉ
Mất29 tháng 11 năm 2009(2009-11-29) (67 tuổi)
Sint-Genesius-Rode, Bỉ
An táng4 tháng 12 năm 2009
Nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh ở Laeken, Bỉ
Phối ngẫuLéa Inge Dora Wolman
Tên đầy đủ
tiếng Pháp: Alexandre Emmanuel Henri Albert Marie Léopold
tiếng Hà Lan: Alexander Emanuel Hendrik Albert Maria Leopold
Hoàng tộcNhà Sachsen-Coburg và Gotha
Thân phụLéopold III của Bỉ
Thân mẫuMary Lilian Baels

Alexandre của Bỉ (tiếng Pháp: Alexandre Emmanuel Henri Albert Marie Léopold, tiếng Hà Lan: Alexander Emanuel Hendrik Albert Maria Leopold; 18 tháng 7 năm 194229 tháng 11 năm 2009) là con trai của Vua Léopold III của BỉNữ Thân vương xứ Réthy. Ông là em cùng cha khác mẹ với Nữ Đại Công tước Joséphine-Charlotte của Luxembourg, Vua BaudouinVua Albert II của Bỉ.

Thiếu thời[sửa | sửa mã nguồn]

Vương tử Alexandre sinh ngày 18 tháng 7 năm 1942 tại Cung điện Laeken ở thành phố Bruxelles của Vương quốc Bỉ. Ông có hai người em gái ruột là Vương nữ Marie-ChristineMarie-Esméralda của Bỉ. Mẹ đỡ đầu của ông cũng chính là người chị cùng cha khác mẹ, Nữ Đại Công tước Joséphine-Charlotte của Luxembourg.

Ông cùng gia đình bị quân đội Đức bắt giữ cho đến khi trận Normandie diễn ra năm 1944. Sau đó, Léopold III cùng người vợ thứ hai và bốn người con lần lượt chuyển sang bị giam giữ tại HirschsteinSachsen, Đức rồi đến Strobl gần thành phố Salzburg của Áo suốt mùa đông năm 1944–1945. Tháng 5 năm 1945, gia đình Léopold III được quân đội Mỹ trả tự do. Sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình hoàng gia vẫn không được trở về Bỉ mà phải sống lưu vong ở Thụy Sĩ cho đến khi cuộc trưng cầu ý dân được diễn ra tại Vương quốc Bỉ năm 1950. Trong thời gian đó, Vương tử Alexandre đã học thêm một số kiến thức về y học để kiếm tiền phụ giúp gia đình.

Hôn nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 14 tháng 2 năm 1991, tại thành phố Debenham thuộc hạt Suffolk của Anh, Vương tử Alexandre đã kết hôn với Léa Inge Dora Wolman – một người đã từng có hai đời chồng. Cuộc hôn nhân được giữ kín đến tận năm 1998 vì Vương tử lo sợ rằng mẹ của ông sẽ không chấp nhận.[1] Chuyện này cũng tương tự như chuyện cha ông, Vua Léopold III giữ kín chuyện ông kết hôn với Lilian, Hoàng phi xứ Réthy 50 năm trước. Cô dâu Léa đã có hai người con là Laetitia Spetschinsky và Renaud Bichara từ hai cuộc hôn nhân trước.

Địa vị hoàng gia[sửa | sửa mã nguồn]

Đã có những xích mích xảy ra giữa các con của người vợ trước và các con của người vợ sau của Vua Léopold III. Tuy nhiên, quan hệ giữa Vương tử Alexandre và các anh chị em cùng cha khác mẹ dường như đã dần được cải thiện đáng kể, khi ông cùng với vợ đã xuất hiện trước công chúng cùng với các thành viên khác của Hoàng gia. Ngược lại, hai Vương nữ Marie-ChristineMarie-Esméralda lại có vẻ không được thân thiện mấy.

Mặc dù, các con của Vua Léopold III và người vợ thứ hai không có quyền kế vị ngai vàng, nhưng nhiều học giả nghiên cứu Hiến pháp lại cho rằng, Vương tử Alexandre hoàn toàn có quyền kế vị ngai vàng của Vương quốc Bỉ.[2] Cho dù là như vậy, nhưng cuộc hôn nhân bí mật năm 1991 giữa ông và Léa Wolman đã đi ngược lại với Điều 85 trong Hiến pháp Bỉ, quy định rằng quyền kế vị sẽ bị tước bỏ nếu bất cứ hậu duệ nào của Vua Léopold I kết hôn mà không có sự cho phép của Đức vua.[3]

Tuy nhiên, tháng 5 năm 2008, trong bài phỏng vấn với tờ Point de Vue của Bỉ, Vương tức Léa đã nói rằng, "...những người con của Vua Léopold và người vợ thứ hai – Vương tử Alexandre, Vương nữ Marie-Christine và Vương nữ Marie-Esméralda – từ nhỏ đã được nuôi dạy để trở thành Vương tử và Vương nữ Bỉ, lại còn được mang tước hiệu Royal Highness, nhưng lại không có quyền kế vị ngai vàng".[1] bà nói thêm, "Vương tử Alexandre đã phải chịu sự giáo dục vô cùng nghiêm khắc... Ông ấy đã chờ đợi rất lâu để có thể được đại diện Hoàng gia tham dự vào các sự kiện quốc tế. Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra."[1]

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Vương tử Alexandre đã qua đời vì bị thuyên tắc phổi vào ngày 29 tháng 11 năm 2009.[4] Lễ tang của ông được tổ chức vào thứ sáu, ngày 4 tháng 12 năm 2009 tại Nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh ở Laeken, Bỉ.[5] Ông được chôn cất tại hầm mộ của Nhà thờ.[6]

Tổ tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Séguy, Philippe (ngày 29 tháng 4 năm 2008). “Léa de Belgique: Il faut en finir avec le malheur”. Point de Vue (bằng tiếng Pháp): 18–21.
  2. ^ (tiếng Anh)Velde, François. “The Belgian Succession”. Heraldica.org. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  3. ^ (tiếng Pháp)Velde, François. “The Belgian Succession”. Heraldica.org. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  4. ^ (tiếng Anh)“Prince Alexandre de Mérode, 68, Head of I.O.C. Antidrug Efforts”. The New York Times. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  5. ^ “Funeral Prince Alexander of Belgium”. Monarchy Press Europe. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  6. ^ (tiếng Anh)“HRH Prince Alexandre of the Belgians”. The Telegraph. ngày 17 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]