Cá răng gai mảnh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ctenochaetus strigosus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Acanthuridae
Chi (genus)Ctenochaetus
Loài (species)C. strigosus
Danh pháp hai phần
Ctenochaetus strigosus
(Bennett, 1828)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Acanthurus strigosus Bennett, 1828

Cá răng gai mảnh, tên khoa học Ctenochaetus strigosus, còn gọi là cá răng gai viền mắt vàng, hoặc là Kole trong tiếng Hawaii, là một loài cá biển thuộc chi Ctenochaetus trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh của loài cá này, strigosus, trong tiếng Latinh có nghĩa là "mảnh mai, mảnh khảnh", không rõ hàm ý điều gì, có lẽ đề cập đến bộ răng mảnh và dài của chúng[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. strigosus có phạm vi phân bố giới hạn ở Trung Thái Bình Dương. Đây là một loài cá đặc hữu của quần đảo Hawaiiđảo Johnston gần đó[1]. C. strigosus sống gần các rạn san hô, chủ yếu là ở vùng nước nông, nhưng cũng đã được ghi nhận ở độ sâu đến 113 m[1].

Một số tài liệu ghi nhận sự có mặt của C. strigosus ở vùng biển Việt Nam đã được xác định là nhầm lẫn với một loài cá đuôi gai khác[3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở C. strigosus là 24 cm[4]. Có một mảnh xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi, tạo thành ngạnh sắc. Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, có màu nâu xám sẫm với những đường sọc màu xanh lam nhạt dọc theo chiều dài cơ thể, và các đốm tròn nhỏ cùng màu phủ khắp đầu (nhưng không lan rộng đến thân trước và ngực). Vây lưng và vây hậu môn có viền màu xanh lam ánh kim; vây ngực màu vàng nâu. Đuôi lõm sâu, hình cánh nhạn. Một đốm vàng đặc trưng bao quanh mắt của loài cá này. Cá con có màu vàng tươi đến màu vàng nâu trên toàn cơ thể[4].

Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 25–28; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 22–25[5].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

C. potteriC. strigosus, hai loài cá đặc hữu của Hawaii và đảo Johnston

C. strigosus thường được quan sát là sống đơn độc[5]. C. strigosus và những loài còn lại trong chi Ctenochaetus chủ yếu ăn các loại tảovụn hữu cơ. Chúng dùng răng của mình để đẩy cát đá trên nền đáy và xúc những mảnh tảo vụn vào miệng[6]. Các loài Ctenochaetus đều có chung một đặc điểm là dạ dày có thành dày[6].

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. strigosus cùng với Zebrasoma flavescens, Acanthurus achillesNaso lituratus chiếm đến 90% tổng sản lượng những loài được thu thập để nuôi làm cá cảnhHawaii[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d McIlwain, J.; Clements, K.D.; Abesamis, R.; Choat, J.H.; Myers, R.; Nanola, C.; Rocha, L.A.; Russell, B.; Stockwell, B. (2012). Ctenochaetus strigosus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T177949A1500072. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T177949A1500072.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2020.
  3. ^ Ranier Froese; Daniel Pauly (biên tập). “List of Marine Fishes reported from Viet Nam”. FishBase. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  4. ^ a b John E. Randall (2010). Shore Fishes of Hawai'i. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 186. ISBN 978-0824834272.
  5. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Ctenochaetus strigosus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  6. ^ a b J. E. Randall; K. D. Clements (2001). “Second revision of the surgeonfish genus Ctenochaetus (Perciformes: Acanthuridae), with descriptions of two new species”. Indo-Pacific Fishes. 32.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]