Cổng thông tin:Đế quốc Đông La Mã/Nhân vật tiêu biểu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Basiliscus (mất 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ dòng họ Leo, bắt đầu nắm quyền hành khi tiến hành cuộc nổi dậy buộc Hoàng đế Zeno phải trốn khỏi Constantinopolis. Basiliscus là em trai Hoàng hậu Aelia Verina, vợ của Hoàng đế Leo I (457474). Mối quan hệ của ông với Hoàng đế cho phép ông theo đuổi binh nghiệp, sau khi đạt được những thành công nhỏ ban đầu, thì trong cuộc xâm chiếm lãnh thổ rợ Vandalchâu Phi của người La Mã dưới quyền chỉ huy của ông đã thất bại thảm hại vào năm 468, được coi là một trong những chiến dịch quân sự lớn nhất cuối thời cổ đại. Basiliscus đã thành công trong việc chiếm đoạt quyền lực vào năm 475, lợi dụng sự bất mãn của dân chúng với Hoàng đế Zeno vốn có gốc gác “mọi rợ” kế thừa tiên đế Leo và kết quả là khiến cho phe cánh Thái hậu Verina tiến hành đảo chính đã buộc ông phải trốn khỏi Constantinopolis. Tuy nhiên khi đã yên vị, trong suốt triều đại ngắn ngủi của mình, Basiliscus đã để mất sự ủng hộ của Giáo hội và dân chúng Constantinopolis, chỉ vì lý do đề bạt và cất nhắc những vị trí thần học cho phái Miaphysite mà ông là tín đồ đối lập với đức tin của phái Chalcedonian. Ngoài ra, chính sách của ông chỉ để bảo vệ quyền lực của mình thông qua việc bổ nhiệm những kẻ thân tín giữ những chức vụ trọng yếu gây ra sự chống đối với nhiều nhân vật quan trọng trong triều đình bao gồm cả người chị Verina. [ Đọc tiếp ]


Zeno (425491), tên thật là Tarasis, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi loạn trong nước và vấn đề chia rẽ tôn giáo đã xảy ra dưới thời ông trị vì, dù vẫn đạt được thành công chừng mực trong các vấn đề đối ngoại. Triều đại của Zeno đã chứng kiến sự cáo chung của Đế quốc Tây La Mã dưới thời Hoàng đế Julius Nepos, nhưng ông đã có công lớn góp phần ổn định Đế quốc Đông La Mã trong thời kỳ đầy biến động này. Tháng 1 năm 475 Basiliscus nổi dậy chống lại Zeno và tiếm ngôi cầm quyền cho tới lúc Zeno khôi phục ngôi vị vào tháng 8 năm 476. Basiliscus là em trai Thái hậu Verina; ông nắm quyền sau khi Zeno trốn khỏi Constantinopolis, nhưng không được dân chúng Constantinopolis ủng hộ và bị bắt xử trảm khi Zeno tiến vào kinh thành phục hưng đại quyền.

Trong lịch sử Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã, Zeno có liên quan đến sự kiện ban hành Henotikon hoặc "Chỉ dụ Hợp nhất" do chính ông ban bố và được tất cả các Giám mục Giáo hội phương Đông ký vào, nhằm mục đích giải quyết những bất đồng xoay quanh thuyết "Nhất Tính luận". [ Đọc tiếp ]


Justinianus IHoàng đế Đông La Mã từ năm 527 đến khi qua đời, là vị Hoàng đế thứ nhì của nhà Justinianus sau người chú là Justinus I. Ông được phong thánh bởi các tín đồ Chính Thống giáo Đông phương, và được Giáo hội Luther chọn ngày 14 tháng 11 (Lịch Thánh) làm ngày tưởng niệm.

Ông là một trong những nhân vật quan trọng nhất của thời kì hậu cổ đại và là vị Hoàng đế La Mã cuối cùng nói tiếng Latin như tiếng mẹ đẻ. Sự cai trị của Justinian đã tạo nên một kỷ nguyên khác biệt trong lịch sử của Đế quốc Đông La Mã. Triều đại của Justinian được đánh dấu bởi tham vọng nhưng chỉ có thể thực hiện được một phần renovatio imperii, hoặc "phục hồi Đế quốc".Tham vọng này được thể hiện bởi sự phục hồi một phần lãnh thổ của Đế quốc Tây La Mã không còn tồn tại. Vị tướng Belisarius tài năng của ông nhanh chóng chinh phục Vương quốc Vandal ở Bắc Phi, mở rộng sự kiểm soát của La Mã đến Đại Tây Dương. Tiếp theo Belisarius, Narses, các tướng lĩnh khác đã chinh phục Vương quốc Ostrogoth, khôi phục lại Dalmatia, Sicilia, Ý, và Rome trở về Đế quốc sau hơn một nửa thế kỷ nằm dưới sự kiểm soát của người rợ. [ Đọc tiếp ]


Flavius Belisarius (khoảng. 500 – 565) là một vị tướng của Đế quốc Byzantine. Ông được bổ nhiệm ông chỉ huy quân đội La Mã ở miền đông để đối phó với những cuộc đột kích từ Đế quốc Sassanid. Ông đã dẫn dắt thành công quân đội trong Chiến tranh Iberia, đánh bại người Ba Tư trong các trận Dara (530) và trận Callinicum (531), dẫn đến hiệp ước "Hòa bình Vĩnh cửu" (532) giữa hai đế chế. Trở về Constantinopolis, ông cùng với Thống chế miền Illyrium là Mundus, đã dập tắt cuộc nổi dậy Nika trong bể máu. Ngoài ra, ông đóng vai trò quan trọng trong kế hoach tham vọng của hoàng đế Justinianus I nhằm khôi phục lãnh thổ Địa Trung Hải của Đế quốc Tây La Mã từng bị rơi vào tay man tộc gần một thế kỉ trước đó. Ông tiêu diệt vương quốc Vandal và vương quốc của người Goth. Một trong nét nổi bật trong sự nghiệp của Belisarius là những thắng lợi hầu như không đứt đoạn của ông bất chấp sự thay đổi mức độ ủng hộ từ Justinian. Tên của ông thường được xem, cùng với một số người khác, là "Người La Mã cuối cùng". [ Đọc tiếp ]


Ioannes II Komnenos (13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Ông là trưởng nam của Hoàng đế Alexios I Komnenos và Hoàng hậu Eirene Doukaina và là vị hoàng đế thứ hai trị vì trong suốt thời kỳ Komnenos trung hưng Đế quốc Đông La Mã. Ioannes vốn là một vị hoàng đế nhân từ và luôn nhận thức rõ hiểm họa của đế quốc từ sau trận Manzikert nửa thế kỷ trước.

Ioannes thường được xem là một trong những vị hoàng đế xuất sắc nhất của nhà Komnenos. Trong suốt hai mươi lăm năm trị vì của mình, ông liên minh với Đế quốc La Mã Thần thánh ở miền Tây, quyết tâm bình định người Pecheneg, người Hungary và người Serb vùng Balkan, và ngự giá thân chinh thảo phạt người ThổTiểu Á. Các cuộc chinh phạt của Ioannes về cơ bản đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở miền Đông, buộc người Thổ phải lui về phòng thủ và khôi phục lại nhiều thành trì, thành phố và thị trấn ở ngay trên bán đảo. Về phía Đông Nam, Ioannes đã bành trướng quyền kiểm soát của Đông La Mã từ Maeander ở miền Tây cho đến CiliciaTarsus ở miền Đông. Trong một nỗ lực để chứng tỏ lý tưởng của Đông La Mã về vai trò của hoàng đế là người lãnh đạo thế giới Kitô giáo, Ioannes tiến binh vào xứ Syria Hồi giáo trở thành người đứng đầu liên quân Byzantium và các tiểu quốc Thập tự quân; tuy vậy bất chấp hùng tài đại lược của mình nơi sa trường, Hoàng đế sớm trở nên thất vọng trước sự thoái thác của các đồng minh Thập tự quân và thái độ miễn cưỡng của họ khi tham chiến bên cạnh quân mình. Ngoài ra dưới thời Ioannes, dân số của đế chế được phục hồi vào khoảng 10 triệu người. [ Đọc tiếp ]