Coradion altivelis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Coradion altivelis
Phân loại khoa học edit
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Chaetodontidae
Chi: Coradion
Loài:
C. altivelis
Danh pháp hai phần
Coradion altivelis
McCulloch, 1916
Các đồng nghĩa[2]
  • Coradion fulvocinctus Tanaka, 1918

Coradion altivelis, tên thông thườngcá bướm vây cao, là một loài cá biển thuộc chi Coradion trong họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1916.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh altivelis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh, altus ("cao") và velum ("cánh buồm"), tuy không được giải thích nhưng hàm ý rõ ràng đề cập đến vây lưng và vây hậu môn vươn cao ở loài cá này hơn hai loài Coradion còn lại.[3]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ biển Andaman, C. altivelis được phân bố trải dài về phía đông, băng qua vùng biển các nước Đông Nam Á đến quần đảo Solomon, ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Tây Úc và dọc theo rạn san hô Great Barrier đến Sydney (Úc).[4][5]

Tại Việt Nam, C. altivelis được ghi nhận tại vùng biển Quảng Ninh,[6] đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị),[7] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) cũng như tại quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[8]

C. altivelis thường sống trên các rạn viền bờ hoặc trên nền đáy bùn có nhiều san hôtảo phát triển, được tìm thấy ở độ sâu khoảng 3–30 m.[4]Nha Trang, C. altivelis được quan sát ở độ sâu khoảng 18–40 m.[8]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

C. altivelis và một nhóm Pseudanthias

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. altivelis là 18 cm.[5] C. altivelis có màu trắng với cặp sọc chữ V màu nâu sẫm, kéo dài xuống vị trí vây bụng, dải sọc thứ ba cùng màu nằm ở thân sau. Sọc thứ tư ở trên đầu, băng qua mắt. Mõm ngắn và nhọn. Vây bụng có màu nâu đen. Vây đuôi trong mờ; cuống đuôi có một vạch đen. Cá con và cá đang lớn có một đốm tròn màu đen viền trắng xanh trên vây lưng. Vây lưng và vây hậu môn hình tam giác đặc trưng.[9]

Cũng có bốn dải sọc như C. altivelis, nhưng sọc của Coradion chrysozonus có màu tươi hơn (nâu cam), còn dải sọc thứ tư ở Coradion melanopus có thêm viền cam và hai đốm đen ở thân sau. Cả hai loài sau này có vây lưng và vây hậu môn bo tròn.

Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 31–33; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 20–22; Số tia vây ở vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 49–50.[9]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

C. altivelis là loài ăn tạp, nhưng thức ăn chủ yếu của chúng có thể là hải miên (bọt biển) như các loài Coradion khác.[4] C. altivelis sống đơn độc và ghép cặp vào thời điểm sinh sản.[5]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. altivelis ít được xuất khẩu trong ngành buôn bán cá cảnh.[10]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Myers, R.F.; Pratchett, M. (2010). Coradion altivelis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165697A6094841. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165697A6094841.en. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Fishbase
  3. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Acanthuriformes (part 1): Families Lobotidae, Pomacanthidae, Drepaneidae and Chaetodontidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ a b c Myers, R.; Pratchett, M. (2010). Coradion altivelis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165697A6094841. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165697A6094841.en. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
  5. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Coradion altivelis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  6. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  7. ^ Võ Văn Phú; Lê Văn Quảng; Dương Tuấn Hiệp; Nguyễn Duy Thuận (2011). “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá rạn san hô ven bờ đảo Cồn Cỏ tỉnh Quảng Trị” (PDF). Tạp chí Khoa học Đại học Huế. 64: 85–98. doi:10.26459/jard.v64i1.3092. ISSN 2615-9708.
  8. ^ a b Astakhov, D. A. (2010). “Annotated list of species of the family Chaetodontidae (Actinopterygii, Perciformes) from Nha Trang Bay (South China Sea, Central Vietnam)” (PDF). Journal of Ichthyology. 50 (10): 914–931. doi:10.1134/S0032945210100024. ISSN 1555-6425.
  9. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 231. ISBN 978-0824818951.
  10. ^ R. Pyle (2001). “Chaetodontidae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3258. ISBN 978-9251045879.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]