Hồng hạc Chile

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hồng hạc Chile
Hồng hạc Chile cạnh trứng của nó tại Tiergarten, Bernburg, Đức
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Phoenicopteriformes
Họ (familia)Phoenicopteridae
Chi (genus)Phoenicopterus
Loài (species)P. chilensis
Danh pháp hai phần
Phoenicopterus chilensis
Molina, 1782

Danh pháp đồng nghĩa[2]
  • Phoenicoparrus chilensis (Molina 1782)
  • Phoenicopterus ruber chilensis (Molina 1782)
  • Phoenicopterus ignipalliatus Orbigny & Geoffroy Saint-Hilaire

Hồng hạc Chile (danh pháp hai phần: Phoenicopterus chilensis) là một loài hồng hạc lớn có kích thước 110–130 cm (43–51 in), quan hệ gần gũi với hồng hạc Mỹhồng hạc lớn.[3] Hồng hạc Chile sinh sống ở khu vực Nam Mỹ, từ Ecuador, Peru đến Chile, Argentina và phía Đông Brazil, chúng cũng được du nhập vào ĐứcHà Lan. Một số lượng nhỏ cá thể còn xuất hiện ở UtahCalifornia. Môi trường sống của chúng thường bị giới hạn ở các đầm muối hoặc hồ kiềm, vốn là những khu vực dễ bị tổn hại do mất môi trường sốngô nhiễm nước.

Không hiếm cá thể hồng hạc Chile ở môi trường tự nhiên sống hơn 50 năm tuổi còn trong môi trường nuôi nhốt, tuổi thọ trung bình của loài là khoảng 40 năm.[4][5] Chúng được Sách Đỏ IUCN xếp vào hạng mục loài sắp bị đe dọa.

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Hồng hạc Chile bay thành đàn ở Rio Grande do Sul, Brazil
Một đàn hồng hạc Chile lúc bình minh

Loài đã được mô tả sinh học vào năm 1782 bởi Juan Ignacio Molina. Tương tự như ở các loài hồng hạc khác, hồng hạc Chile trưởng thành có đầu nhỏ, cổ dài so với cơ thể, mống mắt màu vàng nhạt, cặp chân dài cùng ba ngón chân có màng giúp chúng đứng vững dưới bùn.[6] Bộ lông của hồng hạc Chile được mô tả có màu hồng đậm hơn so với hồng hạc lớn nhưng lại nhạt hơn so với hồng hạc Caribbe. Có thể phân biệt chúng với những loài hồng hạc khác qua đôi chân có màu xám lợt, khớp nối xương chày có màu hồng cùng chiếc mỏ có nhiều phần màu đen hơn. Hồng hạc Chile con, song, không có bộ lông màu hồng mà thay vào đó là màu xám.[7][8]

Thức ăn[sửa | sửa mã nguồn]

Mỏ của hồng hạc Chile sở hữu cấu trúc tựa như chiếc lược giúp chúng có khả năng lọc thức ăn trong nước và bùn ở những bãi bồi ven biển, cửa sông, đầm và hồ muối.[9] Thức ăn của hồng hạc thường là các loại động vật không xương sống như ruồi đục cánh, tôm, sinh vật phù du cùng với một số loại tảo lục lam, tảo silic, động vật nguyên sinh, thực vật thủy sinh, ấu trùng và giun nhỏ.[8] Loài thường đứng sau cùng chuỗi thức ăn của hệ sinh thái thủy kiềm nơi chúng sinh sống.[6]

Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]

Hồng hạc Chile sống thành những đàn lớn trong tự nhiên và cần điều kiện quần thể đông đúc từ 15 đến 18 cá thể để thúc đẩy quá trình sinh sản. Vào mùa giao phối, cá thể đực và cá thể cái có nhiều hành vi nhằm thu hút bạn tình, như lắc đầu từ phía này sang phía khác hoặc liên tục mở và khép cánh. Hồng hạc nhìn chung có tỉ lệ sinh sản thành công thấp vì chúng có xu hướng trì hoãn giao phối cho đến khi điều kiện môi trường thật thích hợp.[10].

Sau khi ghép đôi thành công, con đực và con cái sẽ cùng nhau xây tổ bằng bùn cũng như thay phiên ấp trứng.[10]. Sau khi nở, con non có bộ lông màu xám và chỉ bắt đầu chuyển sang màu hồng vào lúc 2 đến 3 tuổi.[11] Cả hồng hạc bố và mẹ đều có thể sản sinh một loại chất dinh dưỡng tương tự như sữa ở tuyến diều để nuôi con.[9]

Môi trường nuôi nhốt[sửa | sửa mã nguồn]

Cá thể hồng hạc đầu tiên nở thành công tại một vườn thú ở châu Âu là cá thể hồng hạc Chile tại Vườn thú Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1958.[12]

Năm 1988, một cá thể hồng hạc Chile sống tại Vườn điểu Tracy, Salt Lake, Utah trốn thoát,[13] và trở nên nổi tiếng với cái tên Pink Floyd. Pink Floyd về Utah vào mùa đông để ăn tôm ngâm nước mặn tại hồ Muối Lớn, và bay tới Idaho và Montana vào mùa hè. Pink Floyd trở thành nhân vật thu hút khách du lịch và trở thành biểu tượng địa phương cho đến khi mất tích[14] sau khi bay về Idaho vào mùa xuân năm 2005.

Do số lượng loài hồng hạc Chile đã sụt giảm đáng kể, các kế hoạch sinh sản đã được thực hiện ở các vườn thú nhằm ngăn chặn xu hướng này tiếp tục.[10].

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ BirdLife International (2012). Phoenicopterus chilensis. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ Çınar, Ümüt (tháng 11 năm 2015). 04 → Cᴏʟᴜᴍʙᴇᴀ: Pʜᴏᴇɴɪᴄᴏᴘᴛᴇʀɪfᴏʀᴍᴇs, Pᴏᴅɪᴄɪᴘᴇᴅɪfᴏʀᴍᴇs, Mᴇsɪᴛᴏʀɴɪᴛʜɪfᴏʀᴍᴇs, Pᴛᴇʀᴏᴄʟɪᴅɪfᴏʀᴍᴇs, Cᴏʟᴜᴍʙɪfᴏʀᴍᴇs. English Names of Birds. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2015.
  3. ^ Knox A.G., Collinson M., Helbig A.G., Parkin D.P., and Sangster G. (2002). Taxonomic recommendations for British birds. Ibis 144:707-710.
  4. ^ "Henry Vilas Zoo"
  5. ^ Perrins, C., C. Harrison. 1979. Birds: Their Life, Their Ways, Their World. New York: Reader's Digest Association, Inc.
  6. ^ a b Austin, O. 1961. Birds of the World. New York: Golden Press, Inc.
  7. ^ “Photo”. Zoo View. Los Angeles Zoo and Botanical Gardens. XXXVII (4): 1, back cover. 2004.
  8. ^ a b "The Great Plains Zoo & Delbridge Museum, 2005. "The Great Plains Zoo & Delbridge Museum" (On-line)"[liên kết hỏng]
  9. ^ a b "Chilean Flamingo Fact Sheet, Lincoln Park Zoo". Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  10. ^ a b c Farrell, Barry. “Breeding behavior in a flock of Chilean flamingos (Phoenicopterus chilensis) at Dublin zoo” (PDF). Zoo Biology.
  11. ^ Lincoln Park Zoo. “Chilean Flamingo”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2018.
  12. ^ “Zoo celebrates 50 years of flamingo breeding and science”. Basler Zeitung. ngày 13 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 22 Tháng 3 2009. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  13. ^ "Utah's Wild Chilean Flamingo, Pink Floyd!"
  14. ^ “Feeling Blue About Pink Floyd”. Deseret News. ngày 26 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]