HMS Holmes (K581)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Holmes (DE-572)
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 27 tháng 10, 1943 [1]
Hạ thủy 18 tháng 12, 1943 [1]
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc
Xóa đăng bạ 7 tháng 2, 1946
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 3 tháng 12, 1945 [2]
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 10, 1947
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Holmes (K581)
Đặt tên theo Robert Holmes [3]
Nhập biên chế 31 tháng 1, 1944 [1]
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 3 tháng 12, 1945 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Holmes (K581) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-572, một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh được đặt cái tên này, tên nó được đặt theo Đô đốc Robert Holmes (khoảng 1622-1692), người đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Anh-Hà Lan thứ haithứ ba.[3][4] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[5][6]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[7] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[7]

Holmes được đặt lườn như là chiếc DE-572 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 27 tháng 10, 1943 và được hạ thủy vào ngày 18 tháng 12, 1943.[1][2][3][4] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Holmes (K581) vào ngày 31 tháng 1, 1944 [1][2][3][4] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân David Brian Gladstone Dumas.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Một sĩ quan đang đo góc la bàn trên HMS Holmes, đang khi hộ tống các tàu tiếp vận Đồng Minh đi sang bãi đổ bộ Normandy

Holmes đã phục vụ dưới quyền Bộ chỉ huy Nore trong cuộc chiến tranh khi tham gia hộ tống vận tải ven biển và hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại eo biển MancheBắc Hải. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất dưới quyền Bộ chỉ huy Nore tham gia trực tiếp vào cuộc đổ bộ Normandy vào ngày 6 tháng 6, 1944, khi nó được giữ lại tại Clyde dự định gia nhập cùng các tàu chị em, nhưng lại được phái gặp gỡ Nelson (28) tại Milford Haven và hộ tống chiếc thiết giáp hạm đi sang vị trí bắn phá ngoài khơi bãi đổ bộ vào đúng ngày D. Nó ở lại khu vực đổ bộ để hoạt động tuần tra chống tàu ngầm cho đến hết tháng 6 và đầu tháng 7, hộ tống các đoàn tàu quay trở lại khu vực cửa sông Thames, trước khi quay lại dưới quyền Bộ chỉ huy Nore.[9]

Đến cuối năm 1944, Holmes chuyển sang hoạt động như tàu Frigate Kiểm soát Lực lượng Duyên hải, chỉ huy một chi hạm đội xuồng phóng lôi hoạt động tại eo biển Manche và Bắc Hải nhằm đối phó các tàu E-Boat đối phương. Vào ngày 8 tháng 3, 1945, con tàu từng khai nhận đã đánh chìm được tàu ngầm Đức U-275 sau khi chiếc U-boat phóng ngư lôi nhắm vào chiếc tàu buôn Lornaston trong đoàn tàu vận tải. Tuy nhiên, tài liệu của Hải quân Đức thu được sau chiến tranh không xác nhận chiến công này, vì U-275 chỉ bị đắm hai ngày sau đó do trúng thủy lôi trong eo biển Manche về phía Nam Newhaven.[9][10]

Sang tháng 4, Holmes cùng tàu chị em Cosby (K559) được điều động sang Chi hạm đội Devonport. Cho dù chiến tranh đã sắp chấm dứt, hoạt động của tàu E-boat đối phương tại eo biển Manche và Bắc Hải vẫn rất tích cực do chưa chiếm được các căn cứ hoạt động của chúng. Sau khi xung đột kết thúc, nó tiếp tục hoạt động tại Devonport, nhưng ít khi ra khơi, cho đến tháng 11, khi nó đi đến Chatham để tháo dỡ các thiết bị Anh và cắt giảm nhân sự thủy thủ đoàn trước khi quay trở về Hoa Kỳ.[9]

Holmes được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 12, 1945,[1][2][3] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 2, 1946[2][4] và bị bán cho hãng Walter H. Wilms and Company tại Detroit, Michigan vào tháng 10, 1947 để tháo dỡ.[2][3][4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Helgason, Guðmundur. “HMS Holmes (K 581)”. uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g Yarnall, Paul R (ngày 14 tháng 12 năm 2019). “DE 572/HMS Holmes (K581)”. NavSource.org. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f Tynan, Roy (2003). “HMS Holmes K581 (DE 572)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b c d e Naval Historical Center. Holmes II (DE-572). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  5. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  6. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  7. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  8. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  9. ^ a b c Tynan, Roy (2003). “Operations of the Nore Command Frigates”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-275”. uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]