Scarus russelii

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Scarus russelii
Cá cái (đang chuyển thành cá đực)
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Scaridae
Chi (genus)Scarus
Loài (species)S. russelii
Danh pháp hai phần
Scarus russelii
Valenciennes, 1840
Danh pháp đồng nghĩa
  • Xanothon fowleri Smith, 1956

Scarus russelii là một loài cá biển thuộc chi Scarus trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1840.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được đặt theo tên của Patrick Russell, bác sĩ phẫu thuậtnhà tự nhiên học người Scotland, người đã mô tả (nhưng không đặt tên) và phác họa loài cá mó này vào năm 1803[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

S. russelii được ghi nhận dọc theo bờ biển Đông Phi trải dài đến vịnh Sodwana của Nam Phi, bao gồm Madagascar và hầu hết các đảo quốc trên Ấn Độ Dương, cũng như bờ biển phía nam Ấn Độ, và từ biển Andaman (thuộc bờ biển MyanmarThái Lan) trải dài về phía nam đến quần đảo Cocos (Keeling) và tại đảo Weh (phía bắc Sumatra, Indonesia)[1].

Môi trường sống của S. russelii là các rạn san hô viền bờ ở độ sâu đến ít nhất là 20 m[1][3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

S. russelii có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 51 cm[3]. Vây đuôi bo tròn ở cá cái, cụt ở cá đực trưởng thành với hai thùy đuôi dài tạo thành hình lưỡi liềm. Cá đực có màu xanh lục lam; nửa thân trước có màu xanh sẫm hơn nửa thân sau. Vảy có các vạch màu cam phớt hồng. Hai bên má có một vùng màu vàng giúp phân biệt chúng với những loài cá mó khác có cùng khu phân bố. Đầu có các vệt màu xanh lục lam băng qua mắt, bao quanh miệng, trên mõm và dưới cằm. Cá cái có màu nâu tím đến nâu đỏ với các dải sọc màu sẫm. Môi màu đỏ với phiến răng trắng[4][5].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9[3].

S. russeliiloài chị em với Scarus fuscopurpureusScarus schlegeli. Cá cái của ba loài này có kiểu hình khá giống nhau[1].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của S. russelii chủ yếu là tảo. Chúng kiếm ăn bằng cách dùng phiến răng cạo tảo bám trên đásan hô[3]. S. russelii trưởng thành thường sống đơn độc và có tính cảnh giác cao[3], tuy nhiên cũng có thể hợp từng thành nhóm nhỏ gần các rạn san hô[1].

S. russelii được đánh bắt nhưng chúng không phải loài được nhắm mục tiêu[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f J. H. Choat và cộng sự (2012). Scarus russelii. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T190706A17798107. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T190706A17798107.en. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ a b c d e Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Scarus russelii trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2021.
  4. ^ Rudie H. Kuiter; Timothy Godfrey (2014). Fishes of the Maldives – Indian Ocean. Nhà xuất bản Atoll Editions. tr. 222. ISBN 978-1876410971.
  5. ^ Corinna Sommer; Wolfgang Schneider; Jean-Maurice Poutiers (1996). The Living Marine Resources of Somalia. FAO. tr. 296. ISBN 978-9251037423.