Bước tới nội dung

Thành viên:Nguyễn Trung Hiếu GGT/Nháp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Những vấn đề về môi trường tại Việt Nam Có rất nhiều vấn đề môi trường tại Việt Nam bởi những hậu quả nghiêm trọng từ những lần kháng chiến Các cuộc chiến tranh liên quan đến Việt Nam và công cuộc cải cách công nghiệp hóa hiện đại hóa của Việt NamCông nghiệp hóa tại Việt Nam năm 1986 được biết đến với tên gọi Đổi mới. Theo như một bài thống kê được xuất bản bởi bộ Môi Trường Việt Nam, những vấn đề cơ bản về môi trường là sự xói mòn đất, chặt phá rừng bừa bãi, mất sư đa dạng và cân bằng về sinh học, ôi nhiễm nguồn nước, ôi nhiễm không khí và sự quản lý chất thải rắn. Những năm gần đây, biến đổi khí hậu cũng ảnh hưỡng nghiêm trọng tới môi trường tại Việt Nam. Năm 2007 Ngân Hàng Thế Giới cho rằng Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi sự biến đổi khí hậu.

Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên và Môi Trường Việt Nam chịu trách nhiệm khắc phục và giải quyết những vấn đề môi trường này. Xuống cấp tỉnh, trách nhiệm trên thuộc về từng Sở Tài Nguyên Thiên Nhiên và Môi Trường cùng với những tổ chức phi chính như Viện Kinh Tế SInh Thái

Lịch sử

Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ gieo rắc hơn 19 triệu gallons chất diệt cỏ xuống Miền Nam Việt Nam trong đó hơn 12 triệu gallons là chất độc dioxin thường được biết đến với tên gọi là chất độc màu da cam. Dữ liệu từ năm 2009 cho thấy tổng diện tích đất canh tác trong tổng số đất sử dụng là khoảng 20%, trong khi các loại cây lâu đời không cần trồng lại sau khi thu hoạch chiếm khoảng 7% của toàn bộ diện tích đất hiện có. Người dân Việt Nam đã cho thấy sự tăng trưởng đáng kể trong phát triển thông qua các kế hoạch cải cách kinh tế được khởi xướng vào năm 1986, được gọi là Đổi mới. Cải cách kinh doanh và nông nghiệp đã tạo ra thành công với hơn 30.000 doanh nghiệp tư nhân, và tỷ lệ nghèo đói giảm từ khoảng 50% xuống còn 29% dân số từ đầu những năm 1990 đến 2005. Tuy nhiên, các báo cáo đã chỉ ra rằng do sự gia tăng dân số đáng kể, các khu bảo tồn trong lĩnh vực môi trường thường bị lơ là khi phát triển đất gần đó, điều này tạo ra xung đột giữa kế hoạch bảo tồn khu vực với quy hoạch và phát triển đất.

Sự tiếp cận với nguồn nước sạch

Nước ngọt có thể được tiếp cận với 99% người dân trong phạm vi một km. [7] Nguồn cung cấp nước ở đô thị tồn tại sự khác biệt lớn giữa các thành phố lớn và nhỏ. Nước máy là nguồn cung cấp nước sẵn có ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí MinhHà Nội, bao gồm gần như toàn bộ dân số, trong khi ở các thành phố nhỏ hơn, có 60% người dân được tiếp cận với nước sạch.

Ở khu vực nông thôn, 75% dân số có thể tiếp cận nước ngọt trong phạm vi một km, nhưng chỉ có 51% hộ gia đình nông thôn được sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.

Khoảng 60% các Công ty Sản xuất Nước (WPC) tham gia vào thị trường nước ở các khu vực thành thị. Tuy nhiên, nguồn cung cho đến nay vẫn nằm trong tay Chính phủ. Các WPC giảm các hoạt động của họ đối với việc sản xuất nước.

Ở các vùng nông thôn, giếng đào thủ công vẫn là nguồn nước quan trọng nhất vì 39% -44% vẫn sống dựa vào đó. Chỉ 10% dân số nông thôn được cung cấp nước máy.

Ô nhiễm nguồn nước gây thiệt hại lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng được coi là vựa lúa của Việt Nam. Ô nhiễm nguồn nước do ngành công nghiệp phát triển nhanh chóng dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cao vì hầu hết người dân vùng này sống phụ thuộc vào nguồn nước mặt của sông.

Các bệnh lây truyền qua đường nước thường gặp ở Việt Nam là dịch tả, sốt thương hàn, kiết lỵ, tiêu chảy do vi khuẩn và viêm gan A. [12] Trong trường hợp bệnh tả, mặc dù số người chết do bệnh tả gây ra không quá 2 người kể từ năm 1996, nhưng số trường hợp mắc bệnh tả được báo cáo vẫn còn cao đáng kể. Gây ra bởi nước uống bị ô nhiễm bởi vi khuẩn, số lượng bệnh tả được báo cáo là trên 500, đạt 1900 vào năm 2007 và 600 vào năm 2010. [13] Tỷ lệ tử vong của bệnh tả đã gần 0% kể từ năm 1999. [13] Năm 2009, tổng số bệnh tiêu chảy được báo cáo là 296000. [14] Theo WHO, số ca tử vong do nước, vệ sinh và môi trường do vệ sinh gây ra năm 2004 ở Việt Nam là 5938. [13] Một thực tế đáng ngạc nhiên là trong số 5938 trường hợp tử vong, có 4905 trẻ em dưới 5 tuổi, điều đó có nghĩa là trẻ em là nạn nhân chính của vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường.

Ôi nhiễm không khí

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nhanh chóng, với hơn 96 triệu dân vào năm 2019. [15] Sự phát triển nhanh chóng kết hợp với nạn phá rừng, ít hoặc không có tiêu chuẩn khí thải phương tiện giao thông, xe máy chạy bằng xăng gây ô nhiễm và quy hoạch đô thị kém đã gây ra chất lượng không khí kém ở các thành phố lớn.

Bảo tồn hang Sơn Đoòng

Hang Sơn Đoòng, nằm trong Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, được coi là hang động lớn nhất thế giới (theo thể tích). [17] [18] Các kế hoạch đang được xem xét để xây dựng một tuyến cáp treo qua hang động. Hệ thống được đề xuất sẽ dài 10,5 km (6,5 mi) và có giá từ 112 đến 211 triệu đô la. Các kế hoạch bị phản đối bởi các nhà môi trường. [19]

Thảm họa sinh vật biển Việt Nam năm 2016 là một cuộc khủng hoảng ô nhiễm nguồn nước đã ảnh hưởng đến các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng TrịThừa Thiên – Huếmiền Trung Việt Nam.

Xác cá được cho là đã trôi dạt vào các bãi biển của tỉnh Hà Tĩnh ít nhất từ ​​ngày 6 tháng 4 năm 2016.Sau đó, một số lượng lớn cá chết được tìm thấy ở bờ biển Hà Tĩnh và ba tỉnh khác (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế) cho đến ngày 18 tháng 4 năm 2016. Formosa Hà Tĩnh Steel, một nhà máy thép do tập đoàn Đài Loan Formosa Plastics xây dựng, đã xả chất thải công nghiệp độc hại ra biển trái phép qua các đường ống thoát nước.Sau nhiều tháng chối bỏ trách nhiệm, Formosa đã nhận trách nhiệm về sự cố cá chết vào ngày 30 tháng 6 năm 2016.