Vân Môn tông
Vân Môn tông (zh. 雲門宗, ja. Unmon-shū) là một tông phái nằm trong Ngũ gia thất tông của Thiền tông Trung Quốc, do Thiền sư Vân Môn Văn Yển - pháp tử của Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn sáng lập. Tông này phát triển mạnh vào dưới đời Tống song song cùng với tông Lâm Tế, nhưng đến đời Nam Tống thì suy yếu và hoàn toàn bị thất truyền dưới đời Nguyên (tồn tại chỉ khoảng 200 năm).[1][2]
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Ban sơ, Thiền sư Vân Môn Văn Yển tham vấn Thiền sư Mục Châu Đạo Túng (zh. 睦州道蹤) và đại ngộ, sau lại đến yết kiến Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn và thấu được áo chỉ (triệt ngộ) bèn nối pháp Tuyết Phong. Gia phong của Thiền sư Mục Châu thì mãnh liệt, bén nhọn còn gia phong của Thiền sư Tuyết Phong thì ôn hòa, huyền ảo. Vân Môn kế thừa sở trường của cả hai vị này và đến hoằng pháp tại Vân Môn Sơn Quang Thái Thiền Viện (zh. 雲門山光泰禪院) ở Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông. Môn đệ của Vân Môn rất đông (hơn 1000 đệ tử, trong đó có 61 người nối pháp). Họ kế thừa tông phong của Vân Môn và truyền bá khắp thiên hạ, hình thành nên một tông phái riêng gọi là Vân Môn tông.[2][3]
Đến đầu đời Tống, do Quy Ngưỡng tông bị thất truyền nên Thiền tông chỉ còn 4 tông tồn tại là Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Trong đó tông Vân Môn cùng với tông Lâm Tế và tông Pháp Nhãn là phát triển nhất, phía tông Tào Động khá suy vi. Lúc này, ảnh hưởng của tông Vân Môn mở rộng ra cả xã hội thượng tầng.[2][4]
Trong bài tựa của bộ Kiến Trung Tịnh Quốc Tục Đăng Lục (1101), Vua Tống Huy Tông cho rằng: "Chỉ cần hai tông Lâm Tế và Vân Môn là đã bao gồm hết thiên hạ". Như vậy, vào thời Bắc Tống (960-1127), tông Vân Môn cũng hưng thịnh không thua kém gì tông Lâm Tế và nó chỉ suy thoái dần dần vào cuối thời kỳ này.[4]
Các Thiền sư nổi tiếng của tông này có thể kể đến Đức Sơn Duyên Mật, Hương Lâm Trừng Viễn, Song Tuyền Sư Khoan, Động Sơn Thủ Sơ là những người đã kế thừa Vân Môn Văn Yển xuất sắc và phát triển mạnh tông phong vào đầu đời Tống. Đệ tử của Đức Sơn Duyên Mật là Văn Thù Ứng Chân, đệ tử của Song Tuyền Sư Khoan là Ngũ Tổ Sư Giới, đệ tử của Hương Lâm Trừng Viễn là Tuyết Đậu Trọng Hiển đã nối tiếp thành công truyền thống của thầy họ. Đặc biệt, Tuyết Đậu Trọng Hiển là người nổi tiếng nhất về tài năng văn học với tác phẩm nổi danh Bích Nham Lục. Đệ tử của Tuyết Đậu Trọng Hiển lại có Thiên Y Nghĩa Hoài là người đặt nền móng cho sự trùng hưng của tông Vân Môn. Ngoài ra cũng có Thiền sư Phật Ấn Liễu Nguyên là người có quan hệ thân thiết với nhà thơ Tô Đông Pha nổi tiếng và hai người đã để lại khá nhiều giai thoại mang tính triết lý cho đời sau.[4]
Mặt khác, một số Thiền sư của tông Vân Môn như Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bản, Từ Thụ Hoài Thâm và Trường Lô Tông Trách cũng có thái độ chấp nhận đối với giáo lý Tịnh Độ tông. Riêng Tông Trách là người ngưỡng mộ di phong của Lô Sơn Liên Xã (Bạch Liên Xã, do Huệ Viễn (334-416) lập năm 402) nên đã thành lập tổ chức Liên Hoa Thắng Hội.[4]
Bên cạnh đó, thời kỳ nhà Tống cũng diễn ra một số cuộc tranh luận kịch liệt giữa Thiền tông và Thiên Thai tông. Về phía tông Vân Môn thì điển hình là cuộc tranh luận giữa Tử Phưởng (Thiên Thai tông) với Phật Nhật Khế Tung (Vân Môn tông). Tử Phưởng cho rằng thuyết "Nhị thập bát tổ" của Thiền tông là nguỵ tạo, mê hoặc lòng người khiến Phật Nhật Khế Tung soạn Tổ Thuyết (Giải thích về chư tổ) và Chỉ Ngoa (Ngừng việc nói nhảm nhí) để phản bác lại.[4]
Tới thời kỳ Nam tống (1127–1279), tông Vân Môn bị suy yếu. Về hoạt động nổi bật của tông này thời kỳ này chỉ có tác phẩm Gia Thái Phổ Đăng Lục (1204) do Thiền tăng tông Vân Môn là Lôi Am Chính Thụ (1146-1208) biên soạn. Từ cuối nhà Nam Tống sang đầu nhà Nguyên thì pháp hệ của tông Vân Môn đã thất truyền và không còn thấy ghi chép nữa. Vị Thiền sư cuối cùng được ghi chép lại trong phổ hệ là Thiền sư Dĩ Am Thâm Tịnh thời Nam Tống (thuộc đời thứ 11 của tông Vân Môn).[4][5]
Cận đại, Thiền sư Hư Vân là người chủ trương khôi phục và nối tiếp pháp mạch của Ngũ gia tông phái. Đối với tông Vân Môn, sư có công lao to lớn trong việc khôi phục lại Vân Môn tự bị đổ nát vốn là tổ đình của tông này. Và để phục hồi lại truyền thừa, sư ấn khả cho đệ tử là Thiền sư Phật Nguyên nối pháp tông Vân Môn vào ngày 3 tháng 8 năm 1951 và giao phó lại cho vị này trách nhiệm trụ trì tổ đình và truyền bá tông Vân Môn.[6][7]
Đặc trưng[sửa | sửa mã nguồn]
Nói về đặc điểm của tông Vân Môn, Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu đời Nguyên mô tả Thiền phong của tông Vân Môn là "cao sang cổ kính". Còn trong Ngũ Gia Tham Tường Yếu Lược Môn (1788) của Tôrei Enji (Đông Lĩnh Viên Từ, 1721-1791) thì có khuynh hướng dùng ngành nghề để nói về các tông phái Thiền, Enji ví tông này với nhà vua hay "thiên tử" (Vân Môn thiên tử). Ý nói cơ phong tiếp dẫn người học của tông này sắc bén thẳng tắp, ngữ cú đơn giản và phương tiện giáo hóa dứt khoát hơn các tông còn lại.[3][4][8]
Truyền thừa[sửa | sửa mã nguồn]
1/ Thiền sư Vân Môn Văn Yển (Khai tổ)
2/ Thiền sư Song Tuyền Nhân Úc
- 3/ Thiền sư Đức Sơn Huệ Viễn
- 4/ Thiền sư Khai Tiên Thiện Tiêm
- 5/ Thiền sư Phật Ấn Liễu Nguyên
2/ Thiền sư Song Phong Quảng Ngộ
2/ Thiền sư Phụng Tiên Đạo Thâm
- 3/ Thiền sư Liên Hoa Phong Tường
2/ Thiền sư Ba Lăng Hạo Giám
2/ Thiền sư Động Sơn Thủ Sơ
- 3/ Thiền sư Nam Nhạc Lương Nhã
- 4/ Thiền sư Tiến Phúc Thừa Cổ
2/ Thiền sư Đức Sơn Duyên Mật
- 3/ Thiền sư Văn Thù Ứng Chân
- 4/ Thiền sư Động Sơn Hiểu Thông
- 5/ Thiền sư Phật Nhật Khế Tung
2/ Thiền sư Song Tuyền Sư Khoan
- 3/ Thiền sư Ngũ Tổ Sư Giới
- 4/ Thiền sư Lặc Đàm Hoài Trừng
- 5/ Thiền sư Dục Vương Hoài Liễn
- 5/ Thiền sư Cửu Phong Giám Thiều
- 6/ Thiền sư Đại Hải Pháp Anh
- 4/ Thiền sư Lặc Đàm Hoài Trừng
2/ Thiền sư Hương Lâm Trừng Viễn
- 3/ Thiền sư Trí Môn Quang Tộ
- 4/ Thiền sư Tuyết Đậu Trọng Hiển
- 5/ Thiền sư Thừa Thiên Truyền Tông
- 5/ Thiền sư Thảo Đường -> Tổ sáng lập Thiền phái Thảo Đường tại Việt Nam.
- 5/ Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài
- 6/ Thiền sư Viên Chiến Tông Bản
- 7/ Thiền sư Trường Lô Sùng Tín
- 8/ Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm
- 9/ Thiền sư Linh Ẩn Huệ Quang
- 10/ Thiền sư Trung Trúc Nguyên Diệu
- 11/ Thiền sư Dĩ Am Thâm Tịnh
- 10/ Thiền sư Trung Trúc Nguyên Diệu
- 9/ Thiền sư Linh Ẩn Huệ Quang
- 8/ Thiền sư Trí Giả Tự Như
- 9/ Thiền sư Bảo Lâm Văn Tuệ
- 10/ Thiền sư Tường Phù Lương Khánh
- 9/ Thiền sư Bảo Lâm Văn Tuệ
- 8/ Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm
- 7/ Thiền sư Pháp Vân Thiện Bản
- 8/ Thiền sư Diệu Trạm Tư Huệ
- 9/ Thiền sư Nguyệt Đường Đạo Xương
- 10/ Thiền sư Lôi Am Chính Thụ
- 9/ Thiền sư Nguyệt Đường Đạo Xương
- 8/ Thiền sư Diệu Trạm Tư Huệ
- 7/ Thiền sư Trường Lô Sùng Tín
- 6/ Thiền sư Văn Huệ Trọng Nguyên
- 7/ Thiền sư Nguyên Phong Thanh Mãn
- 8/ Thiền sư Viên Giác Tông Diễn
- 7/ Thiền sư Nguyên Phong Thanh Mãn
- 6/ Thiền sư Viên Thông Pháp Tú
- 7/ Thiền sư Phật Quốc Duy Bạch
- 7/ Thiền sư Huệ Nghiêm Tông Vĩnh
- 6/ Thiền sư Trường Lô Ứng Phu
- 7/ Thiền sư Trường Lô Tông Trách[4]
- 6/ Thiền sư Viên Chiến Tông Bản
- 4/ Thiền sư Tuyết Đậu Trọng Hiển
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Đạo Uyển (2001). Từ Điển Phật Học. tr. 526.
- ^ a b c “Tự điển - Vân Môn Tông”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b Thích Duy Lực biên dịch (1991). Cội Nguồn Truyền Thừa Và Phương Pháp Tu Trì Của Thiền Tông.
- ^ a b c d e f g h Nguyễn Nam Trân biên dịch (2009). Lịch Sử Thiền Tông Trung Quốc.
- ^ Hư Vân (2012). Phật Tổ Đạo Ảnh (Tập 2). Nxb Hồng Đức.
- ^ “Tự điển - hư vân”. phatgiao.org.vn. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2023.
- ^ Diệu Âm biên dịch (2018). Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Tăng Tán Thán Tăng. Nxb Hồng Đức. tr. 189, 190.
- ^ “Vân Môn thiên tử”. Thư Viện Hoa Sen. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2023.
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán |