Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vàng anh Á Âu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Alphama Tool, General fixes
→‎Tham khảo: clean up, replaced: {{sơ khai Họ Vàng anh}} → {{Oriolidae-stub}} using AWB
Dòng 36: Dòng 36:
{{wikispecies|Oriolus oriolus}}
{{wikispecies|Oriolus oriolus}}
{{commonscat|Oriolus oriolus}}
{{commonscat|Oriolus oriolus}}

{{sơ khai Họ Vàng anh}}


[[Thể loại:Oriolus|O]]
[[Thể loại:Oriolus|O]]
Dòng 44: Dòng 42:
[[Thể loại:Chim châu Á]]
[[Thể loại:Chim châu Á]]
[[Thể loại:Chim châu Âu]]
[[Thể loại:Chim châu Âu]]


{{Oriolidae-stub}}

Phiên bản lúc 09:40, ngày 20 tháng 9 năm 2014

Chim vàng anh
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Passeriformes
Họ (familia)Oriolidae
Chi (genus)Oriolus
Loài (species)O. oriolus
Danh pháp hai phần
Oriolus oriolus
(Linnaeus, 1758)
Oriolus oriolus
Bài này nói về một loài chim, nó còn là tên gọi của một chi thực vật là chi Saraca thuộc phân họ Vang.

Chim vàng anh hay hoàng anh (danh pháp hai phần: Oriolus oriolus), là một loài chim trong họ Vàng anh (Oriolidae) thuộc bộ Sẻ (Passeriformes)[1]. Chúng thường sinh sản ở khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, về mùa hè nó di cư đến khu vực châu Âu và miền tây châu Á còn mùa đông thì di cư đến khu vực nhiệt đới.

Nó là loài chim đậu trên các cây cao lá sớm rụng trong các khu vực đồng rừng, vườn cây ăn quả hay công viên. Một quần thể nhỏ tại Anh sinh sản trong các khu vực trồng cây dương đen (Populus nigra).

Chúng làm tổ trên các chạc cây và đẻ từ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng và quả, được chúng tìm kiếm trên các tán lá.

Vàng anh trống là nổi bật với bộ lông vàng và đen điển hình, nhưng vàng anh mái lại có bộ lông vàng ánh xanh lục buồn tẻ. Chúng là loài chim khá nhút nhát và thậm chí cả chim trống cũng rất khó phát hiện trong các tán lá có màu xanh lục và vàng lốm đốm.

Kiểu bay lượn của chúng tương tự như ở loài chim hét, thẳng và mạnh với độ nghiêng nhỏ trên một khoảng cách lớn.

Tiếng kêu của chúng giống như tiếng kêu của chim giẻ cùi, nhưng của chúng thì thánh thót tựa như là uyla-uy-u hay or-iii-ole, không lẫn vào đâu được khi đã nghe thấy.

Tên gọi trong tiếng Anh của nó là "oriole" có nguồn gốc từ tiếng Latinh oriolus lần đầu tiên được ghi nhận bởi Albertus Magnus vào khoảng năm 1250, và ông đã coi nó là từ tượng thanh để làm tên gọi cho loài chim này, dựa theo tiếng hót của nó.

Các loài vàng anh Tân thế giới có bề ngoài tương tự như họ Vàng anh (Oriolidae), nhưng chúng thuộc họ Icteridae và không có quan hệ họ hàng gì với họ Vàng anh của Cựu thế giới.

Chú thích

  1. ^ Clements, J. F., T. S. Schulenberg, M. J. Iliff, B.L. Sullivan, C. L. Wood, and D. Roberson (2012). “The eBird/Clements checklist of birds of the world: Version 6.7”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Tham khảo


Bản mẫu:Oriolidae-stub