Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Châu thổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: AlphamaEditor, thêm thể loại, Excuted time: 00:00:29.7440000
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[Tập tin:River delta.svg|nhỏ|Đồng bằng châu thổ]]
[[Tập tin:River delta.svg|nhỏ|Đồng bằng châu thổ]]
'''Châu thổ''' là một địa mạo được hình thành ở nơi dòng [[sông]] chảy vào một [[đại dương]], [[biển]], [[cửa sông|cửa biển]], [[hồ]], [[hồ chứa]], khu vực khô cằn bằng phẳng, hoặc sông khác. Châu thổ được hình thành từ sự lắng đọng của các trầm tích khi dòng nước thoát khỏi cửa sông. Qua những thời gian dài, sự lắng đọng này tạo nên một kiểu địa đặc trưng gọi là châu thổ sông.
'''Châu thổ''' là một địa mạo cấu tạo khi một dòng [[sông]] chảy vào một vụng nước, nhỏ là [[hồ]], đầm [[phá]], lớn là [[vịnh]], [[biển]] hay [[đại dương]] khiến dòng nước bị cản chậm lại. Chất [[phù sa]] cuốn theo dòng nước khi tốc độ nước không đủ mạnh sẽ phải lắng đọng xuống, bồi lên lòng sông và hai bên bờ. Lượng [[trầm tích]] lan tỏa theo bề rộng làm lòng sông chuyển từ hẹp và sâu sang càng nông và rộng. Nhiều nhánh sông [[phân lưu]] nhỏ xuất hiện, giúp trải rộng [[cửa biển]]. Địa hình đặc trưng này gọi là châu thổ sông.


== Quá trình hình thành ==
== Quá trình hình thành ==

Phiên bản lúc 23:19, ngày 2 tháng 9 năm 2017

Đồng bằng châu thổ

Châu thổ là một địa mạo cấu tạo khi một dòng sông chảy vào một vụng nước, nhỏ là hồ, đầm phá, lớn là vịnh, biển hay đại dương khiến dòng nước bị cản chậm lại. Chất phù sa cuốn theo dòng nước khi tốc độ nước không đủ mạnh sẽ phải lắng đọng xuống, bồi lên lòng sông và hai bên bờ. Lượng trầm tích lan tỏa theo bề rộng làm lòng sông chuyển từ hẹp và sâu sang càng nông và rộng. Nhiều nhánh sông phân lưu nhỏ xuất hiện, giúp trải rộng cửa biển. Địa hình đặc trưng này gọi là châu thổ sông.

Quá trình hình thành

Châu thổ sông hình thành khi một con sông mang theo trầm tích tiếp xúc với một vùng nước đứng, như một đại dương, hồ, hoặc hồ chứa. Khi dòng chảy đi vào vùng nước đứng, nó không còn bị giới hạn bởi bờ sông nữa và sẽ tỏa rộng. Điều này làm giảm vận tốc dòng chảy, cũng có nghĩa là làm giảm khả năng vận chuyển trầm tích. Kết quả là, trầm tích giảm di chuyển và lắng xuống. Theo thời gian, lòng sông duy nhất này sẽ biến thành thùy châu thổ (một vùng với nhiều phân lưu có dạng như chân chim mà người ta có thể quan sát ở châu thổ sông Mississippi hoặc châu thổ sông Ural), đẩy miệng sông đi xa hơn nữa vào trong vùng nước đứng. Khi thùy châu thổ phát triển, các gradien của lòng sông giảm đi do dòng sông dài thêm nhưng độ dốc không thay đổi. Đến khi độ dốc của lòng sông giảm đi, nó trở nên không ổn định vì hai lý do. Thứ nhất, nước dưới lực hấp dẫn sẽ có xu hướng chảy thẳng theo hướng dốc nhất. Nếu dòng sông có thể vi phạm đê tự nhiên của nó (tức là, trong khi lũ lụt), nó sẽ tràn ra theo một dòng chảy mới và ngắn nhất đến đại dương, do đó có được một độ dốc dốc hơn và ổn định hơn.[1] Thứ hai, khi độ dốc của lòng sông giảm, lượng biến dạng nén xuống đáy sẽ giảm, làm cho trầm tích lắng xuống ngay tại lòng sông, dẫn tới đáy lòng sông trở nên cao thêm tương đối so với mặt vùng lũ. Điều này sẽ làm cho sông càng dễ vi phạm đê tự nhiên và mở ra một dòng chảy mới vào vùng nước đứng với độ dốc lớn hơn. Thường thì những khi như thế, một phần nước sông có thể vẫn chảy qua dòng chảy đã bị bỏ. Khi có sự thay đổi dòng chảy ở một châu thổ đã trưởng thành, một mạng lưới phân lưu sẽ được tạo ra.

Danh sách vùng châu thổ nổi tiếng

Vùng châu thổ sông HằngẤn ĐộBangladesh, một trong những khu vực đồng bằng màu mỡ nhất trên thế giới

Tham khảo

  1. ^ Slingerland, R. and N. D. Smith (1998), Necessary conditions for a meandering-river avulsion, Geology (Boulder), 26, 435-438.

Liên kết ngoài