Hoa Kỳ cấm vận Cuba

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower
Lãnh tụ Cuba, Fidel Castro

Lệnh cấm Hoa Kỳ đối với Cuba hạn chế các doanh nghiệp Mĩ và các doanh nghiệp có hoạt động thương mại tại Hoa Kỳ tiến hành thương mại với các lợi ích của Cuba. Đây là lệnh cấm vận thương mại lâu dài nhất trong lịch sử hiện đại. Hoa Kỳ lần đầu tiên áp đặt lệnh cấm vận bán vũ khí cho Cuba vào ngày 14 tháng 03 năm 1958, dưới chế độ Fulgencio Batista. Một lần nữa vào ngày 19 tháng 10 năm 1960 (gần hai năm sau cuộc Cách mạng Cuba dẫn đến việc lật đổ chế độ Batista), Hoa Kỳ đặt lệnh cấm vận xuất khẩu sang Cuba ngoại trừ thực phẩm và thuốc sau khi Cuba quốc hữu hóa các nhà máy lọc dầu của Cuba do Hoa Kỳ làm chủ mà không được bồi thường. Vào ngày 07 tháng 02 năm 1962, lệnh cấm vận được mở rộng để bao gồm hầu hết các mặt hàng xuất khẩu. Lệnh cấm vận không cấm buôn bán thực phẩm và vật tư nhân đạo.[1]

Tính đến năm 2018, lệnh cấm vận được thực thi chủ yếu thông qua 6 đạo luật gồm: Đạo luật Giao dịch với Kẻ thù (1917), Đạo luật Hỗ trợ Nước ngoài (1961), Quy định Kiểm soát Tài sản Cuba (1963), Đạo luật Dân chủ Cuba (1992), Đạo luật Helms–Burton (1996) và Đạo luật Cải cách Trừng phạt Thương mại và Tăng cường xuất khẩu (2000). Mục đích đã nêu của Đạo luật Dân chủ Cuba năm 1992 là duy trì các lệnh trừng phạt đối với Cuba miễn là chính phủ Cuba từ chối tiến tới "dân chủ hóa và tôn trọng nhân quyền hơn". Đạo luật Helms-Burton tiếp tục hạn chế công dân Hoa Kỳ kinh doanh ở hoặc với Cuba, và bắt buộc hạn chế việc cung cấp hỗ trợ công hoặc tư cho bất kỳ chính phủ kế nhiệm nào ở Havana trừ khi và cho đến khi có những tuyên bố chống lại chính phủ Cuba. Năm 1999, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã mở rộng lệnh cấm vận thương mại bằng cách không cho phép các công ty con nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ buôn bán với Cuba. Năm 2000, Clinton cho phép bán thực phẩm và các hỗ trợ nhân đạo cho Cuba.

Ở Cuba, lệnh cấm vận được gọi là El bloqueo (cuộc phong tỏa), mặc dù Hoa Kỳ không có phong tỏa hải quân nào đối với đất nước này kể từ Cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba năm 1962. Chính phủ Cuba thường xuyên đổ lỗi cho việc Mỹ "phong tỏa" các vấn đề kinh tế của Cuba. Hoa Kỳ đã đe dọa sẽ ngừng viện trợ tài chính cho các nước khác nếu họ buôn bán các mặt hàng phi lương thực với Cuba. Tuy nhiên, do lệnh cấm vận không được quốc tế ủng hộ phổ biến và các quốc gia khác không thuộc thẩm quyền của luật pháp Hoa Kỳ, các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm ngăn cản các đồng minh của mình giao dịch với Cuba đã không thành công. Những nỗ lực của Hoa Kỳ để làm như vậy đã bị Đại hội đồng Liên hợp quốc lên án là một biện pháp ngoài lãnh thổ đi ngược lại "quyền bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của họ và tự do thương mại và hàng hải là điều quan trọng nhất đối với việc tiến hành các công việc quốc tế ".

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “http://www.iie.com/publications/papers/sanctions-cuba-60-3.pdf” (PDF). 29 tháng 12 năm 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]