Cỏ râu mèo
Cỏ râu mèo | |
---|---|
Hoa cỏ râu mèo ở Đà Lạt | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo) | Lamiales |
Họ (familia) | Lamiaceae |
Chi (genus) | Orthosiphon |
Loài (species) | O. aristatus |
Danh pháp hai phần | |
Orthosiphon aristatus (Blume) Miq., 1858 | |
Danh pháp đồng nghĩa[1] | |
Danh sách
|
Cỏ râu mèo hay cây râu mèo (danh pháp hai phần: Orthosiphon aristatus) là một cây thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Đây là một loại cây thuốc chủ yếu mọc ở khắp Đông Nam Á và vùng nhiệt đới của Australia.
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Cây cỏ, sống lâu năm, cao 0,50-1m. Thân đứng, hình vuông, thường có màu nâu tím. Lá mọc đối, có cuống ngắn, đầu nhọn, mép khía răng to. Cụm hoa là một xim co mọc ở ngọn thân và đầu cành. Hoa màu trắng.Hoa cỏ mèo có 4 tiểu nhị, dài hơn vành 2-5 lần. Nhị và nhuỵ thò dài ra ngoài. Quả bế, thuôn rộng, dẹt, nhăn nheo.Cỏ râu mèo được trồng bằng cách giâm cành. Mùa hoa quả: tháng 4-7.
Phân bố
[sửa | sửa mã nguồn]Cây vốn mọc hoang (ít khi gặp), hiện đã được trồng ở nhiều nơi.
Bộ phận dùng
[sửa | sửa mã nguồn]Cả cây, trừ rễ. Thu hái vào tháng 3- 4 trước khi cây có hoa. Phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học
[sửa | sửa mã nguồn]Cả cây chứa glucosid đắng orthosiphonin, saponin, alcaloid, tinh dầu, tanin, flavonoid, cholin, betain, alcohol triterpen, các acid hữu cơ: acid tartric, citric, glycolic, muối vô cơ kali.
Tác dụng thảo dược
[sửa | sửa mã nguồn]Nhánh cây được phơi khô sắc lấy nước, lợi tiểu mạnh và tốt cho bộ máy tiểu tiện. Cỏ này được dùng để bào chế thuốc orthosiphène. Cỏ râu mèo cũng được sử dụng làm thuốc trị sỏi thận và sỏi túi mật.Ngày 15-40g dạng thuốc sắc, hãm. Có thể nấu cao lỏng. Thường uống luôn trong 8 ngày, lại nghỉ 2- 4 ngày.
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]-
Một cây râu mèo ở Việt Nam
Tư liệu liên quan tới Orthosiphon aristatus tại Wikimedia Commons
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]