Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân Quốc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân Quốc
1938–1940
Cờ ngũ tộc sửa đổi dưới một lá cờ liên minh Trung Quốc

Tiêu ngữ和平 - 建國
Hòa Bình - Kiến Quốc

Lãnh thổ của chính phủ duy tân ở miền trung Trung Quốc
Lãnh thổ của chính phủ duy tân ở miền trung Trung Quốc
Tổng quan
Vị thếQuốc gia không được công nhận
Chính phủ bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản
Thủ đôNam Kinh
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Trung
Tiếng Nhật
Chính trị
Chính phủĐơn nhất dân chủ tự do
Tổng thống 
• 1938–1940
Lương Hồng Chi
Lịch sử
Thời kỳChiến tranh Trung-Nhật
• Thành lập
28 tháng 3 năm 1938
• Sáp nhập vào Chính phủ Quốc dân
30 tháng 3 năm 1940
Mã ISO 3166CN
Tiền thân
Kế tục
Trung Hoa Dân quốc
Chính phủ Đại Đạo
Chính phủ Quốc dân không được công nhận

Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân Quốc (tiếng Trung: 中華民國維新政府, Zhōnghuá Mínguó Wéixīn Zhèngfǔ; tiếng Nhật: 中華民国維新政府, Chūkaminkoku Ishin Seifu) là một chính phủ được Đế quốc Nhật Bản thành lập và bảo hộ, tồn tại ở Trung Quốc trong thời kỳ giữa 1938–1940 trong chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai.[2]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Sau sự rút lui của các lực lượng của Quốc dân ĐảngNam Kinh vào năm 1938, sau thất bại của mình tại trận Nam Kinh, Đại bản doanh Nhật Bản cho phép thành lập một chính quyền hợp tác kiểm soát, ít nhất là trên danh nghĩa, tại những vùng bị chiếm đóng bởi người Nhật tại miền Trung và miền Nam Trung Quốc. Trước đó, Hoa Bắc đã được người Nhật đặt dưới một chính quyền riêng biệt, Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân quốc, từ tháng 12 năm 1937.

Lực lượng vũ trang[sửa | sửa mã nguồn]

Quân đội Chính phủ Duy tân ban đầu bao gồm khoảng 10.000 người khi thành lập, và sau đó tăng lên 30.000 vào năm 1939. Binh sĩ của quân đội này không được người Nhật coi là không đáng tin cậy bởi đào tạo kém và thiếu trang bị. Một học viện quân sự đã được thành lập với một lớp ban đầu gồm vài trăm học viên, để cung cấp cho một lực lượng sĩ quan đáng tin cậy "chưa được biết đến" bởi hoạt động trước đây trong Quốc dân Cách mệnh Quân. Tuy nhiên, Quân đội Chính phủ Duy tân phần lớn không đủ năng lực và được báo cáo là đã thao chạy khỏi quân nổi dậy mà họ gặp phải. Một lực lượng hải quân nhỏ cũng được thành lập để tuần tra các con sông và bờ biển với một số tàu nhỏ, dẫn đầu là một đô đốc bị phế truất của hải quân Quốc gia. Ngoài ra, một lực lượng không quân đã được lên kế hoạch thành lập và một số tàu lượn huấn luyện đã được mua từ Nhật Bản, nhưng nó không được hình thành vào thời điểm chính phủ được sáp nhập.[3]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ China 1921-1928 nationalanthems.info
  2. ^ Brunei, Lịch sử thời gian của quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, trang 521
  3. ^ Jowett (2004), tr. 44-49

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Black, Jeremy (2002). World War Two: A Military History. Routeledge. ISBN 0-415-30535-7.
  • Brune, Lester H. (2002). Chronological History of US Foreign Relations. Routeledge. ISBN 0-415-93916-X.
  • Wasserman, Bernard (1999). Secret War in Shanghai: An Untold Story of Espionage, Intrigue, and Treason in World War II. Houghton Mifflin. ISBN 0-395-98537-4.
Tiền nhiệm:
Chính phủ Quốc dân
(1927–1948)
Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân quốc
1938–1940
Kế nhiệm:
Chính quyền Uông Tinh Vệ
(1940–1945)