Bước tới nội dung

Chelymorpha cassidea

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chelymorpha cassidea
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Phân ngành (subphylum)Hexapoda
Lớp (class)Insecta
Bộ (ordo)Coleoptera
Liên họ (superfamilia)Chrysomeloidea
Họ (familia)Chrysomelidae
Chi (genus)Chelymorpha
Loài (species)Chelymorpha cassidea
Danh pháp hai phần
Chelymorpha cassidea
(Fabricius, 1775)

Chelymorpha cassidea, bọ rùa Argus, là một loài bọ cánh cứng lá trong họ Chrysomelidae.[1][2][3][4] Loài này được tìm thấy ở vùng biển Caribbean và Bắc M.[1][5][6]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Loài bọ cánh cứng này dài 9 đến 12 mm (0,35 đến 0,47 in) và có màu vàng đến đỏ tươi với các đốm đen. Đây là một trong những loài bọ cánh cứng lớn nhất có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Cái tên bọ cánh cứng Argus xuất phát từ người khổng lồ thần thoại Hy Lạp Argus Panoptes, đôi khi được miêu tả với 100 con mắt, bởi vì con bọ cánh cứng có thể vươn ra khỏi cái đầu đỏ của nó vượt ra ngoài mảnh lưng trước, như thể nó là một màu đỏ duy nhất mắt.[7] Loài này giống như một con rùa nhỏ và tương tự như bọ rùa.[7][8]

Ấu trùng[sửa | sửa mã nguồn]

Loài bọ cánh cứng này đẻ trứng trên lá, trong cụm từ 15 đến 30. Trứng nở trong vòng 10 ngày. Ấu trùng của nó có màu vàng lục hoặc vàng cam. Ấu trùng ăn lá cho đến khi chúng trưởng thành hoàn toàn, sau đó chúng rơi xuống đất để hóa nhộng, đan xen như nhộng trước khi nổi lên khi trưởng thành vào giữa mùa hè.[7][9] Phải mất gần ba tuần để hóa nhộng.[9]

Môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Bọ cánh cứng có thể được tìm thấy trên khắp Bắc Mỹ trong các đồng cỏ và lề đường. Nó cũng có thể được tìm thấy ở vùng biển Caribbean. Nó ăn lá của cây, bao gồm bông sữa, quả mâm xôi, ngôkhoai lang.[7] Nó có thể làm rụng lá toàn bộ cây

Môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Loài bọ cánh cứng này có thể được tìm thấy trên khắp Bắc Mỹ trong các đồng cỏ và lề đường. Nó cũng có thể được tìm thấy ở vùng biển Caribbean. Nó ăn lá của cây, bao gồm bông sữa, quả mâm xôi, ngô và khoai lang.[7] Nó có thể làm rụng lá toàn bộ cây .[1][8] Một loại cây mà nó ăn là Convolvulaceae, có lá được bảo vệ bởi alkaloid. Một số alcaloid có thể gây độc thần kinh và có thể gây tử vong cho người và động vật. Có thể là con bọ lưu trữ các alcaloid trong cơ thể để bảo vệ bản thân khỏi những kẻ săn mồi.[10]

Động vật ăn thịt ăn loài bọ cánh cứng này bao gồm Hymenopteran ăn trứng Emersonella niveipes, ăn ấu trùng Tachinidae Masicera exilis, và loài săn mồi Pentatomidae Apateticus bracteatus.[9]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Chelymorpha cassidea Report”. Integrated Taxonomic Information System. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  2. ^ Chelymorpha cassidea species details”. Catalogue of Life. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  3. ^ Chelymorpha cassidea. GBIF. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  4. ^ Chelymorpha cassidea Species Information”. BugGuide.net. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  5. ^ Staines, C.L. “Catalog of the hispines of the World”. Smithsonian Institution. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  6. ^ “North American Cryptocephalus species (Chrysomelidae, Cryptocephalinae)”. Texas Entomology. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  7. ^ a b c d e National Audubon Society Field Guide To Insects & Spiders. Alfred A. Knopf, Inc. 1980. tr. 604. ISBN 9780394507637.
  8. ^ a b John Andrew Eastman (2003). The Book of Field and Roadside: Open-country Weeds, Trees, and Wildflowers of Eastern North America. Stackpole Books. tr. 39. ISBN 978-0-8117-2625-2.
  9. ^ a b c Frank Hurlbut Chittenden (1889). Collected Papers. tr. 49–50.
  10. ^ J. Raupp, Michael (ngày 29 tháng 10 năm 2007). “Bugs In Black Orange and Black III”. Bug Of The Week. University of Maryland. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]