Cirrhilabrus rubripinnis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cirrhilabrus rubripinnis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Cirrhilabrus
Loài (species)C. rubripinnis
Danh pháp hai phần
Cirrhilabrus rubripinnis
Randall & Carpenter, 1980

Cirrhilabrus rubripinnis là một loài cá biển thuộc chi Cirrhilabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1980.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh rubripinnis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh, ruber ("đỏ") và pinnis ("vây, cánh"), hàm ý đề cập đến màu đỏ tươi của các vây ở cá đực và cả cá cái (trừ vây ngực và vây đuôi).[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. rubripinnis được tìm thấy tại PhilippinesIndonesia.[1] Loài này sinh sống gần các rạn san hô trên nền đá vụn ở độ sâu khoảng 2–40 m.[3]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. rubripinnis là 9,1 cm.[3] Vây đuôi gần như bo tròn ở cả cá đực và cá cái. Mống mắtmàu cam. Vây bụng của cá đực rất dài.

Cá cái có màu đỏ cam nhạt với một đốm đen ngay cuống đuôi. Vây lưng và vây hậu môn màu đỏ nhạt, màu vàng nhạt ở gốc. Vây đuôi có các tia màu vàng và màng vây phớt đỏ. Vây bụng màu hồng nhạt.[4]

Cá đực màu đỏ cam; vùng bụng sáng màu hơn, đôi khi là màu trắng. Vảy cá ở vùng cuống họng có màu xanh lam sáng. Vây lưng, vây hậu môn và vây bụng có màu đỏ tươi. Vây lưng và vây hậu môn có các hàng đốm xanh ánh kim, và cũng như vây đuôi, đều có viền xanh óng ở rìa. Vây đuôi có màu vàng cam, lốm đốm các vệt xanh.[5]

Cá đực mùa giao phối sẫm màu cam ở vùng đầu và ngực, vùng thân còn lại cam nhạt hơn và có thêm một vệt trắng ngay sau vây ngực, trải dài từ vây lưng đến vây bụng. Vảy ở họng chuyển thành màu xanh coban, lan rộng xuống gốc vây bụng. Các vây có màu đỏ tía, và vây đuôi chuyển sang màu đỏ thắm.[5]

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số lược mang: 14.[4]

Phân loại học[sửa | sửa mã nguồn]

C. rubripinnis nằm trong một nhóm phức hợp loài cùng với các loài Cirrhilabrus cyanogularis, Cirrhilabrus filamentosusCirrhilabrus tonozukai, đặc trưng bởi các tia gai vươn dài ở vây lưng, vây bụng dài và lớp vảy xanh lam óng dưới ngực.[6]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. rubripinnis là các loài động vật phù du. C. rubripinnis sống theo từng nhóm, một con đực thường sống cùng với nhiều con cái và tạo thành một hậu cung.[3]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. rubripinnis được thu thập trong ngành buôn bán cá cảnh, và được bán với giá 20–40 USD một con tại Hoa Kỳ.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Sadovy, Y. J. (2010). Cirrhilabrus rubripinnis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T155032A4706961. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T155032A4706961.en. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cirrhilabrus rubripinnis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ a b D. R. Bellwood (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3426. ISBN 978-9251045893.
  5. ^ a b Lemon T. Y. K. (17 tháng 11 năm 2015). “3.4 Fairy Wrasses: The filamentosus group”. Reef Builders. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.
  6. ^ Tea, Yi-Kai; Frable, Benjamin W.; Gill, Anthony C. (2018). Cirrhilabrus cyanogularis, a new species of fairy wrasse from the Philippines and Indonesia (Teleostei: Labridae)” (PDF). Zootaxa. 4418 (6): 577–587. doi:10.11646/zootaxa.4418.6.5. ISSN 1175-5334. PMID 30313565.