Bước tới nội dung

Dimash Kudaibergen

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dimash Kudaibergen
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhDinmukhammed Kanatuly Kudaibergen (Kazakh: Дінмұхаммед Қанатұлы Құдайберген)
Tên gọi khácDimash Qudaibergen (Димаш Құдайберген), Dimash Kudaibergenov, (Tiếng Nga: Димаш Кудайбергенов), 迪玛希 (Tiếng Trung: Di Ma Xi)
Sinh24 tháng 5, 1994 (30 tuổi)
Aktobe, tỉnh Aktobe,  Kazakhstan
Thể loạiPop, classical crossover, folk, world, pop opera, nhạc cổ điển
Nghề nghiệpCa-nhạc sĩ, người chơi nhiều nhạc cụ
Nhạc cụGiọng hát, piano, dombra, trống
Năm hoạt động2010 – nay
Websitehttps://en.dimashnews.com/

Dinmukhammed Kanatuly Kudaibergen (tiếng Kazakh: Дінмұхаммед Қанатұлы Құдайберген, Dinmuhammed Qanatuly Qudaıbergen; sinh 24 tháng 5 năm 1994), còn được biết đến với nghệ danh Dimash Kudaibergen, là một nam ca sĩ, nhạc sĩ và nghệ sĩ đa nhạc cụ người Kazakhstan. Dimash sở hữu quãng giọng rất rộng và có thể hát bằng 13 thứ tiếng khác nhau.

Tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Dimash Kudaibergen sinh ngày 24 tháng 5 năm 1994 tại Aktobe, Kazakhstan. Cha anh là Kanat Kudaibergenuly Aitbayev (Қанат Құдайбергенұлы Айтбаев), mẹ anh là Svetlana Ermekovna Aitbayeva (Светлана Ермековна Айтбаева). Cha anh đã từng là lãnh đạo Ban phát triển Văn hóa khu vực Oktobe. Mẹ anh là ca sĩ giọng nữ cao tại Aktobe Philharmonic Society, ủy viên ban Thường vụ về Phát triển Văn hóa Xã hội của khu vực Oktobe và Giám đốc Nghệ thuật của Studio dành cho trẻ em Saz.[cần dẫn nguồn]

Dimash được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, ông và bà của anh đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dạy anh theo phong tục truyền thống của người Kazakhstan.[cần dẫn nguồn]

Dimash đã bắt đầu biểu diễn từ khi còn rất nhỏ, trong khoảng thời gian đầu anh thường hay hát và chơi Piano. Lần đầu tiên anh xuất hiện trên sân khấu là năm 2 tuổi, trong một vai nhỏ ở vở kịch tại địa phương. Ngay từ khi còn nhỏ Dimash đã rất thích các loại nhạc cụ khác nhau và có khả năng cảm âm tuyệt đối. Lúc 5 tuổi, anh bắt đầu tham gia các lớp học piano và thanh nhạc tại phòng thu dành cho trẻ em của trường cao đẳng âm nhạc Akhmet Zhubanov. Trong cùng năm ấy, Dimash lần đầu tiên hát trên sân khấu. Vào năm 6 tuổi (năm 2000) Dimash giành chiến thắng trong cuộc thi piano quốc gia Aynalayin[1].

Trình độ học vấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình học tập:

  • Năm 5 tuổi, Dimash bắt đầu học piano và thanh nhạc tại phòng thu dành cho trẻ em của trường Cao đẳng Âm nhạc Akhmet Zhubanov của Aktobe.[2][3] Sau đó anh học tại Gymnasium Số 32.[4]
  • Năm 2009, Dimash hoàn thành lớp nhạc kịch Broadway.[5]
  • Năm 2014, anh tốt nghiệp chuyên ngành Thanh nhạc cổ điển (Bel Canto) tại viện âm nhạc của đại học K. Zhubanov ở Aktobe.
  • Ngày 27 tháng 6 năm 2018, anh tốt nghiệp chuyên ngành Thanh nhạc đương đại (jazz, pop) tại đại học Nghệ thuật quốc gia Kazakhstan ở Astana.[6][7]
  • Ngày 18 tháng 6 năm 2020 anh tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Sáng tác với điểm số tuyệt đối và nhận được thư giới thiệu nhập học tiến sĩ Âm nhạc tại đại học Nghệ thuật quốc gia Kazakhstan ở Astana.[8][9]

Dimash chơi được 7 nhạc cụ:[10]: piano, organ[3][11], dombra[12], trống[13][14], guitar[11], marimba[11] và Bayan[15]. Và nói được tiếng Kazakhstan và tiếng Nga, đồng thời đang học tiếng Anh và tiếng Quan Thoại.[16]

Dimash đã biểu diễn bằng 13 thứ tiếng khác nhau[17]: Kazakh, Nga, Anh[18], Quan Thoại[19], Ý[20], Pháp[21], Tây Ban Nha[22], Đức[17], Serbia[17], Thổ Nhĩ Kỳ[17], Ukrainian[23], Kyrgyz[17] và Nhật.[24]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2010 - 2014

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 2010 đến năm 2013 Dimash đã tham gia và chiến thắng 4 cuộc thi lớn bao gồm Sonorous Voices of Baikonur 2010[1] và Zhas Kanat 2012[25] tại Kazakhstan; Oriental Bazaar 2012[26] tại Ukraine và Meikin Asia 2013 tại Kyrgyzstan[27][28].

Dimash lần đầu tiên thu hút sự chú ý rộng rãi của các phương tiện truyền thông nước nhà nhờ vào chiến thắng cuộc thi Zhas Kanat với điểm số tuyệt đối từ ban giám khảo 180/180, đây là số điểm cao nhất trong lịch sử cuộc thi từ trước đến nay[29]. Cùng năm 2012, tác phẩm tự sáng tác đầu tiên của Dimash mang tên My Beauty (Көркемім) được phát hành. Năm 2013, anh được mời biểu diễn với tư cách ca sĩ khách mời tại Đêm Gala Türkçevizyon ở Denizli, Thổ Nhĩ Kỳ.[30]

Vào tháng 12 năm 2014, Kudaibergen đã được trao vòng nguyệt quế của Giải thưởng State Youth Prize Daryn[31].

Năm 2015 - 2016

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi tốt nghiệp, Dimash đã biểu diễn ở nhiều nước khác nhau trong khu vực châu Á và châu Âu. Năm 2015, anh được mời tham gia cuộc thi Slavic Bazaar ở Vitebsk, Belarus sau khi một thành viên trong ban tổ chức xem được màn trình diễn trực tiếp của anh tại Kazakhstan. Trong cuộc thi này, anh đã trình diễn các ca khúc: Daididau (bài hát dân ca của Kazakhstan); Blizzard Again (Опять Метель) của ca sĩ người Nga Alla Pugacheva và SOS d'un terrien en détresse của ca sĩ người Pháp Daniel Balavoine. Với những màn trình diễn trên, anh đã giành được trọn vẹn tình yêu của khán giả và ban giám khảo. Tại đây anh tiếp tục giành được giải Grand Prix vào ngày 13 tháng 7 năm 2015[32], với số điểm 175 trên 180 và được ban giảm khảo cùng với truyền thông quốc tế công nhận rộng rãi. Chủ tịch hội đồng giám khảo Polad Bülbüloğlu, tuyên bố rằng Dimash sở hữu cả 3 chất giọng: nam trầm, nam trung và cả altino (đây là một chất giọng hiếm), anh ấy đã sử dụng tất cả chúng trong một bài hát một cách cực kì chuyên nghiệp.[cần dẫn nguồn]

Sau chiến thắng Slavianski Bazaar, Dimash thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện truyền hình quốc gia và các sự kiện truyền thông đại chúng. Các sự kiện bao gồm: Expo 2015 tại Milan, Ý; buổi biểu diễn Mangilik El dành cho lễ kỷ niệm 550 năm ngày thành lập Hãn quốc Kazakhstan; Liên hoan phim Quốc tế Á-Âu 2015 tại Almaty; và buổi hòa nhạc tại nhà hát Opera Astana có sự tham dự của chủ tịch nước TQ Tập Cận Bình.[cần dẫn nguồn]

Tháng 8 năm 2015, Dimash đã phát hành sáng tác thứ 2 của mình mang tên Unforgettable Day (Ұмытылмас күн). Tháng 10 năm 2015, Dimash được chọn để đại diện cho Kazakhstan than gia Liên hoan Ca khúc Truyền hình ABU 2015 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Tại đây anh biểu diễn ca khúc Daididau và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt. Tháng 11 năm 2015, Dimash biểu diễn tại lễ bế mạc ở Turkic (thủ đô Văn hóa nghệ thuật và lễ hội của các quốc gia sử dụng hệ ngôn ngữ Turkic), Turkmenistan.[cần dẫn nguồn]

Ngày 1 tháng 1 năm 2016 Dimash phát hành một đĩa mở rộng (Extended play). Tháng 2 năm 2016, màn trình diễn Daididau của anh được Liên hiệp phát sóng Châu Âu lựa chọn làm đại diện cho Kazakhstan xuất hiện trong chương trình Around the World in 80 Minutes of Music dành riêng cho ngày Phát thanh thế giới 2016. Tháng 3 năm 2016, Dimash đã hát cùng cha mẹ mình tại buổi hòa nhạc tại Astana và buổi hòa nhạc All Stars for My Beloved tại cung điện Kremlin ở Moscow nhân ngày Quốc tế phụ nữ. Tháng 3 và tháng 4 năm 2016, anh đi lưu diễn cùng Dàn nhạc Giao hưởng Đại học Nghệ thuật Kazakhstan tại Vienna, Áo; Maribor, Slovenia; và Belgrade, Serbia với 2 ca khúc SOS d'un terrien en détresse và Daididau.[cần dẫn nguồn]

Tháng 4 đến tháng 12 năm 2016, Dimash tổ chức chuyến lưu diễn có tên Unforgettable Day, đây là chuyến lưu diễn dành cho riêng mình đầu tiên của anh. Chuyến lưu diễn gồm 25 buổi hòa nhạc được trình diễn lại 25 khu vực của Kazakhstan, chuyến lưu diễn này được tổ chức nhằm kỉ niệm 25 năm độc lập của Kazakhstan. Những bài hát được trình diễn tại Unforgettable Day được hát bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.[cần dẫn nguồn]

Vào tháng 7 năm 2016, anh được mời biểu diễn tại lễ khai mạc Slavic Bazaar ở Belarus, nơi anh song ca với Nagima Eskalieva, và cũng được vinh dự nâng cao lá cờ của lễ hội. Năm 2016 Kudaibergen trở thành giám khảo tại Bala Dausy 2016 (Giọng hát của nhi đồng 2016)[33].

Các hoạt động nổi bật khác của Kudaibergen trong năm 2016 bao gồm: tham gia cuộc thi Zhas Kanat hàng năm với tư cách là ca sĩ khách mời; biểu diễn "Diva Dance" tại buổi hòa nhạc Astana Day có sự tham dự của Tổng thống Kazakhstan; trình diễn bài hát rap "I Am Kazakhstan" (với Yerbolat và Alashuly) tại buổi hòa nhạc Gala mừng sinh nhật lần thứ 1000 của Almaty; trình diễn tại sự kiện của UNESCO ở Paris, Pháp; tại Lễ hội Văn hóa Turkic ở Seoul, Hàn Quốc với sự tham dự của tổng thống Hàn Quốc, Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ, Kyrgyzstan, Azerbaijan và Turkmenistan; tại cuộc thi truyền hình Big Opera 2016 ở Nga, anh cùng với Sundet Baigozhin đại diện cho Kazakhstan với tư cách là ca sĩ khách mời.[cần dẫn nguồn]

Vào tháng 11 năm 2016, giám đốc Nhà hát Opera Tiểu bang Astana, Toleubek Alpiyev, mời Dimash làm ca sĩ opera và nói rằng giọng hát của anh ấy sẽ là "lý tưởng cho opera baroque",  nhưng anh ấy quyết định theo đuổi sự nghiệp âm nhạc đương đại.[cần dẫn nguồn]

Đầu năm 2017, Dimash xuất hiện trong chương trình I'm A Singer của đài truyền hình Hồ Nam với sự giới thiệu của đạo diễn Hong Tao, và ký hợp đồng với Black Gold Talent tại Bắc Kinh. Ở tuổi 22, anh trở thành người trẻ nhất trong lịch sử chương trình, tại đây anh phải cạnh tranh với các ca sĩ chuyên nghiệp và nổi tiếng nhất tại Trung Quốc với tư cách là một ‘wildcard’. Mẹ của anh đã từng nói rằng, anh ấy hy vọng sẽ đến được chặn giữa của cuộc thi.[cần dẫn nguồn]

Tại các tâp 1,2 và 6 anh đã giành chiến thắng với các màn trình diễn: "S.O.S d’un terrien en détresse", "Opera 2", và "Adagio". Kết thúc cuộc thi anh giành được giải nhì chung cuộc, về sau ca sĩ Sandy Lam đến từ Hong Kong.[cần dẫn nguồn]

Với sự chiến thắng ở tập 1 với ca khúc "SOS d'un terrien en détresse", tên tuổi của Dimash đã trở nên nổi tiếng và trở hành một "hiện tượng" tại Trung Quốc, Kazakhstan và Pháp.

Tại tập 2 và tập 3 với màn trình diễn: Opera 2 của Vitas và The Show Must Go On của Queen. Đài truyền hình Hồ Nam và các phương tiện truyền thông của Trung Quốc đã gọi anh là "cầu nối cho sự hợp tác văn hóa Kazakh - Trung". Trong khoảng thời gian giữa tập 3 và tập 4, Dimash cùng với Zarina Altynbayeva đã biểu diễn tại lễ khai mạc Winter Universiade 2017 và trình diễn ca khúc A Question of Honor của Sarah Brightman. Trong tập 3 anh lần đầu tiên trình diễn ca khúc tiếng Phổ thông đầu tiên trong cuộc đời mình, ca khúc mang tên Late Autumn (秋意浓) và xếp thứ 3. Tại tập 4, anh được gặp thần tượng thời thơ ấu của mình là diễn viên Thành Long. Tại tập 6, anh trình bày ca khúc Adagio của Lara Fabian và được chính Lara Fabian khen ngợi.[cần dẫn nguồn]

Trong tập 7, Dimash trình diễn ca khúc dân ca truyền thống của Kazakhstan "Daididau" cùng với dàn nhạc dân gian của trường đại học Nghệ thuật Quốc gia Kazakhstan. Trong màn trình diễn này, anh cùng với các đồng đội mặc trang phục truyền thống của Kazakhstan (shapan). Mở đầu màn trình diễn là một bản nhạc truyền thống có tên là Adai (Адай) được Dimash và đồng đội thực hiện trên Dombra sau đó anh mới hát ca khúc Daididau. Buổi biểu diễn của anh đã được đón nhận một cách tích cực và khơi dậy sự quan tâm về âm nhạc và văn hóa Kazakhstan tại Trung Quốc. Sau đó tại một cuộc phỏng vấn Dimash đã nói rằng: sự đón nhận của mọi người một lần nữa đã chứng minh rằng " Âm nhạc không có biên giới". Sau khi tập 7 được phát sóng, một bộ phim tài liệu về Dimash đã được phát trên truyền hình Hồ Nam.[cần dẫn nguồn]

Tại tập 10 anh đã hát bài hát của chính mình Unforgettable Day với một đoạn được dịch sang tiếng Quan Thoại. Chỉ trong vài ngày sau khi tập 10 phát sóng, Unforgettable Day đã vào top đầu trong bảng xếp hạng Fresh Asia Music. Ngày 5 tháng 4, anh phát hành đĩa đơn tiếng Trung đầu tiên của mình Eternal Memories (拿不走的记忆), đây là bài hát của bộ phim Battle of Memories (记忆大师).[cần dẫn nguồn]

Trong tập 12, Dimash đã hát Confessa của Adriano Celentano bằng tiếng Ý và The Diva Dance nhạc phim The Fifth Element. Trong tập này anh đứng vị trí thứ 2 và được đi thẳng vào chung kết. Vào ngày 12 tháng 4, anh phát hành đĩa đơn "Go Go Power Rangers" đây là bài hát chủ đề của bộ phim Power Rangers.[cần dẫn nguồn]

Trong đêm chung kết, Dimash đã song ca với Laure Shang trong ca khúc "A Tribute to MJ" và giành ngôi vị Á Quân[34]. Trong tập cuối, đêm Gala, Dimash đã biểu diển ca khúc tiến Kazakh "Give Me Love" (Маxаббат Бер Маған; Makhabbat Ber Magan).[35]

Trong giai đoạn này Dimash đã xuất hiện một cách dày đặc trên các chuơng trình của truyền hình Trung Quốc, bao gồm: "Happy Camp", My Boyfriend's A Superstar/Fan Fan Boyfriend[36] và Come Sing with Me (nơi người hâm mộ được hát cùng thần tượng của họ). Ngoài các chuơng trình truyền hình anh còn tham gia biểu diễn tại Chinese Top Ten Music Awards tại Thượng Hải (đây là nơi anh giành giải thưởng Trung Quốc đầu tiên, Ca sĩ Châu Á xuất sắc nhất[37]); Top Chinese Music Awards ở Thâm Quyến, Trung Quốc (đây là giải thưởng âm nhạc Châu Á tương đương với giải Grammy, tại đây anh giành được giải "Ca sĩ quốc tế được yêu thích nhất"[38][39]); buổi dạ tiệc Con đường tơ lụa được tổ chức bởi Đại sứ quán Kazakhstan và Bộ Văn hóa Trung Quốc ở Bắc Kinh.[cần dẫn nguồn]

Khi Dimash trở về Kazakhstan sau khi kết thúc chương trình I'm A Singer 2017 anh đã được chào đón bằng sự kiện chúc mừng tại Astana. Sau đó anh tham gia một loạt các sự kiện cộng đồng ở Trung Quốc, Kazakhstan và Pháp.[cần dẫn nguồn]

Các buổi biểu diễn của anh tại Pháp bao gồm: "SOS d'un terrien en détresse" trong chương trình truyền hình "Les Années Bonheur"; các buổi biểu diễn từ thiện tại Global Gift Galas tại Paris và Cannes (sau khi anh được mời tham dự bởi Chủ tịch danh dự của quỹ Eva Longoria); Liên hoan phim Cannes và dạ tiệc Rukhani Zhangyru tại trụ sở chính của UNESCO tại Paris.[cần dẫn nguồn]

Ngày 27 tháng 6 năm 2017, Dimash đã tổ chức buổi hòa nhạc solo qui mô lớn đầu tiên mang tên Bastau ("Beginning") tại Astana, Kazakhstan. Hầu hết các buổi hòa nhạc kéo dài 3 giờ và được hỗ trợ bởi dàn nhạc giao hưởng. Các khách mời bao gồm Terry Lin, Loreen, Sophie Ellis-Bextor and Marat Aitimov. Tại đây anh đã biểu diễn song ca với Maira Mukhamedkyzy, Kristina Orbakaitė và cha mẹ anh (Svetlana Aitbayeva và Kanat Aitbayev). Tại đây anh đã cho ra mắt các bài hát "My Star" (Жұлдызым), "Without You" (Кім екен), "Last Word" (Сөз соңы), and "Leyla" (Лейла). Bastau được đón nhận nồng nhiệt và bán hết sạch vé cho khoảng 30.000 người.[cần dẫn nguồn]

Vào tháng 7, bài hát "Ocean over Time" (:时光 · 沧海) được phát hành tại Trung Quốc làm bài hát chủ đề cho trò chơi Moonlight Blade. Bài hát này đã giành được giải thưởng Media Award của Hollywood. Trong cùng tháng này anh hát tại lễ bế mạc Slavic Bazaar ở Vitebsk, Belarus (nơi sự nghiệp quốc tế của anh bắt đầu vào năm 2015). Ngoài ra trong tháng này anh còn biểu diễn ở Liên hoan phim quốc tế Á-Âu 2017.[cần dẫn nguồn]

Vào ngày 16 tháng 9, Dimash tham gia lễ hội Gakku Open-Air ở Almaty với tư cách là ca sĩ chủ chốt, lễ hội đã thu hút 150.000 người tham gia. Trước sự kiện này, nốt cao nhất của anh được ghi nhận là G#7, ngang với Mariah Carey. Tại lễ hội này, anh đã vượt qua chính mình với nốt D8 trong bài hát "Unforgettable Day".[cần dẫn nguồn]

Năm 2017, vận động viên trượt băng nghệ thuật người Kazakhstan Denis Ten, từng đoạt huy chương Olympic, bắt đầu sử dụng bản trình diễn "SOS d'un terrien en détresse" cho các chương trình trượt băng của mình.[cần dẫn nguồn]

Năm 2018 cũng là một năm Dimash hoạt động sôi nổi tại thị trường Trung Quốc. Ngoài tham gia các chương trình về âm nhạc, anh còn tham gia chương trình truyền hình thực tế Choose Big Star với tư cách là khách mời tham dự. Cũng trong năm này, Dimash đã xuất hiện trong vở kịch ngắn có tên "PhantaCity" trong vai chính của vở kịch và biểu diễn "If I Never Breathe Again" và "When You Believe".

Các chương trình Dimash đã tham gia trong năm 2018 Tại Trung Quốc
Tiết mục biểu diễn Chương trình Bạn diễn Ghi chú
- Flight of the Bumblebee

- Auld Lang Syne

Lễ hội Mùa xuân CCTV Gala Nghệ sĩ dương cầm Wu Muye và Maksim Mrvica Biểu diễn bằng tiếng Quan Thoại
- Jasmine New Year Gala Quán quân giải Grammy Wu Tong
- Hello (Lionel Richie) Singer 2018 Tham gia với tư cách là ca sĩ khách mời
- Daididau One Belt One Road Gala Dàn nhạc giao hưởng
- You and Me Lễ hội trung thu Trung Quốc Wáng Lì
- Screaming Chương trình Idol Hits
- Unforgettable Day Chung kết Hoa hậu Thế giới 2018
- My Heart Will Go On (Celine Dion) Liên hoan phim Quốc tế Hainan
Các chương trình Dimash đã tham gia tại các quốc gia khác năm 2018
Tiết mục biểu diễn Chương trình Địa điểm Tư cách tham dự
- "SOS d'un terrien en détresse Slavic Bazaar 2018 Vitebsk, Belarus Giám khảo và khách mời biểu diễn
- Sinful Passion (tại lễ khai mạc)

- Adagio (tại lễ bế mạc)

New Wave Sochi, Nga Khách mời biểu diễn

Tại chương trình Idol Hits, anh đã cho ra mắt đĩa đơn tiếng anh đầu tiên của mình mang tên "Screaming".

Tháng 11 năm 2018, Dimash hợp tác với nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga Igor Krutoy và cho ra mắt đĩa đơn "Love of Tired Swans" (Любовь уставших лебедей / Lyubov' ustavshikh lebedey). Sau khi phát hành ca khúc, Dimash đã tổ chức hàng loạt các buổi biển diễn tại Nga sau đó. Vào tháng 12, "Love of Tired Swans" đã được trao giải là 1 trong những bài hát hay nhất năm 2018 ở chương trình Gala "Bài hát của năm" tại Moscow, Nga.

Trong năm này, Dimash đã tổ chức 3 buổi hòa nhạc cá nhân bao gồm: 2 buổi hòa nhạc "D-Dynasty" ở Phúc Châu và Thâm Quyến; 1 buổi hòa nhạc cá nhân tại Luân Đôn trong khuôn khổ "Ngày hội Văn hóa Kazakhstan".

Đầu năm 2019, Dimash tham gia cuộc thi tìm kiếm tài năng The World's Best của đài truyền hình CBS. Tại đây, anh được khán giả Hoa Kỳ đặt cho biệt danh là "Six Octave Man" và "man with the world's widest vocal range" (người đàn ông có quãng giọng rộng nhất thế giới). Tại cuộc thi này, anh đã biểu diễn 2 tiết mục: "SOS d'un terrien en détresse" tại vòng thử giọng và "All by Myself" ở vòng battle round (vòng đối đầu). Tại vòng bán kết, anh đã chủ động rút khỏi cuộc thi với lý do anh muốn nhường lại cơ hội cho những người nhỏ tuổi hơn (Theo truyền thống của Kazakhstan và những gì Dimash đã được học từ nhỏ tại gia đình mình: luôn trân trọng trẻ em và tạo mọi điều kiện để trẻ em phát triển). Trước khi rút lui, anh đã biểu diễn ca khúc "Adagio" để tặng cho khán giả và ban giám khảo.

Theo nhiều nguồn thông tin cho biết, trước khi đồng ý tham gia chương trình, anh đã nhiều lần từ chối. Sau nhiều lần chương trình thuyết phục, Dimash đã đồng ý với điều kiện là anh ấy sẽ không phải thi đấu với trẻ em. Và cho đến khi Dimash đang chuẩn bị cho phần thi đêm chung kết của mình sau cánh gà, anh mới biết được mình sẽ phải thi đấu với Daneliya Tuleshova 12 tuổi và Lydian Nadhaswaram 13 tuổi (theo format chương trình: các đối thủ sẽ không có cơ hội gặp mặt nhau cho đến khi bắt đầu thi đấu), điều này hoàn toàn trái ngược với những gì anh đã yêu cầu trước đó.

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, Dimash phát hành album đầu tiên của mình mang tên iD tại Trung Quốc. Sau 37 giây phát hành, Album đã đạt danh hiệu Bạch kim (theo RIAA, album sẽ trở thành một bản thu âm bạch kim khi doanh số hoặc lượt tải xuống đạt từ 1 triệu đến 5 triệu) và sau 1 giờ phát hành Album đã đạt mốc bản thu âm Bạch kim thứ 3.

Ngày 29 tháng 6 năm 2019, Dimash đã tổ chức buổi hòa nhạc Arnau tại Astana Arena (Nur-Sultan, Kazakhstan), buổi hòa nhạc đã thu hút được 40.000 người từ 64 quốc gia khác nhau.

Năm 2019, tiếp tục hợp tác với Igor Krutoy trong các ca khúc "Mademoiselle Hyde", "Love is Like a Dream" (Любовь, похожая на сон), "Know" (Знай), "Olimpico" (tên gọi khác là "Ogni Pietra"), "Where Love Lives" (Там, где живет любовь), "Passione", "Ulisse" (song ca với Aida Garifullina) và "Ti Amo Così" (cùng với Aida Garifullina và Lara Fabian), "Love of Tired Swans" (Любовь уставших лебедей).

Tháng 10 và tháng 11, Dimash tham gia Igor Krutoy Anniversary Tour với tư cách là khách mời biểu diễn tại các thành phố: New York, Dubai, Minsk và Düsseldorf.

Ngày 5 tháng 12 năm 2019, Dimash được trao giải "Ca sĩ xuất sắc nhất trong dòng nhạc cổ điển" và Giải đặc biệt cho "Khám phá của năm" tại Lễ trao giải Âm nhạc Quốc gia Nga Victoria (đây được xem là giải Grammy của Nga).

Ngày 10 tháng 12 năm 2019, Dimash tổ chức buổi hòa nhạc cá nhân đầu tiên của mình tại Hoa Kỳ. Buổi hòa nhạc có tên là Arnau Envoy, được biểu diễn tại Barclays Center, New York. Buổi hòa nhạc đã thu hút 19.000 khán giả đến từ 63 quốc gia.

Ca khúc Chương trình Vị trí Tư cách tham dự Ghi chú
Cuộc thi Super Vocal TV Trung Quốc Ban giám khảo
SOS d'un terrien en détresse The World's Best Hoa Kỳ Thí sinh
All by Myself The World's Best Hoa Kỳ Thí sinh
Adagio The World's Best Hoa Kỳ Thí sinh
Know

Уходит праздник

Passione

Love of Tired Swans

Love is Like a Dream

Mademoiselle Hyde

New Wave 2019 Sochi, Nga Ca sĩ khách mời
Olympico[40]

Where Love Lives[41]

Lễ bế mạc giải vô địch WorldSkills Kazan Ca sĩ khách mời
Olympico Igor Krutoy Anniversary Gala Arena VTB, Moscow, Nga Ca sĩ khách mời
Love Of My Life (Queen) Chung kết The Singer 2019 Trung Quốc Ca sĩ khách mời Trình diễn cùng Super Vocal Boys
荆棘王冠

Screaming

Give me love

拿不走的记忆

重启爱情+难忘的一天

Lễ hội âm nhạc núi Nga My[42] Trung Quốc Ca sĩ khách mời
Guests from Afar, Please Stay Lễ hội văn hóa Châu Á[43] Trung Quốc Ca sĩ khách mời
The Crown

Screaming

Unforgettable Day

Lễ khai mạc tuần phim hành động quốc tế Thành Long[44] Trung Quốc Ca sĩ khách mời
Samal Tau Lễ bế mạc Liên hoan phim Quốc tế Con đường Tơ lụa Trung Quốc Ca sĩ khách mời
Our Love Masked Singer China[45] Trung Quốc Ca sĩ khách mời
Olimpico[46] Đại hội thể thao châu Âu Minsk, Belarus Ca sĩ khách mời
SOS d'un terrien en détresse[47] Liên hoa ca khúc truyền hình ABU 2019 Tokyo, Nhật Bản đại diện cho Kazakhstan

Đầu năm 2020, Dimash đã cho xuất bản 2 ca khúc nhạc phim: Hāi pí yíxià (嗨皮一下) cho phim Vanguard [48] và ca khúc Across Endless Dimensions cho phim Creators: The Past.[49]

Tháng 2, chuyến lưu diễn có tên Arnau Europe chính thức được khởi động nhưng đã bị tạm dừng vào tháng 3 do Covid-19.[50]

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, Dimash đã kí hợp đồng quản lí với IPZUSA (một công ty có trụ sở tại New Jersey), thông báo đã được đăng trên trang web chính thức của công ty.[51]

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, Dimash trở thành nghệ sĩ Kazakhstan đầu tiên xuất hiện trên kênh Youtube chính thức của MTV USA với video ca nhạc “Qairan Elim” được biểu diễn bằng tiếng Kazakh.[52] Video được lọt vào top 5 của MTV USA Livestream trong 10 tuần liên tiếp (từ 2/10/2020 - 18/12/2020). Sau đó là các cuộc phỏng vấn giữa Dimash và người dẫn chương trình Kevan Kenney được phát trực tiếp trên kênh MTV USA Youtube Livestream từ tháng 12/2020 đến tháng 2/2021.[53][54]

Tháng 11 năm 2020, Dimash đã được phỏng vấn bởi Muz-TV với chủ đề sự nghiệp và cuộc sống của anh ấy.[55]

Tháng 12 năm 2020, Dimash phát hành video âm nhạc mới có tên "I Miss You" với sự hợp tác của đạo diễn người Nga Evgeny Kuritsyn.[56]

Ngày 16 tháng 1 năm 2021, Dimash tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến đầu tiên của mình trên nền tảng Tixr. Buổi hòa nhạc có tên Dimash Digital Show[57], với một phần doanh thu sẽ được quyên góp cho dự án CURE.[58] Dimash Digital Show bao gồm các màn trình diễn "SOS d'un terrien en détresse", "War and Peace" và 15 ca khúc khác, đánh dấu sự hợp tác giữ Dimash và dự án CURE.

Vào ngày 17 tháng 1, Sister Cities International đã phát trực tuyến ca khúc "Samaltau"[59] và ca khúc "SOS d'un terrien en détresse" vào ngày 20 tháng 1[60] cho sự kiện Online Annual Gala 2021 với chủ đề All Roads Lead to Diplomacy.[61]

Ngày 31 tháng 1 năm 2021, Dimash cho phát hành video âm nhạc mang tên "Golden" trên nền tảng Tixr ngay sau khi phát sóng nó ở Dimash Digital Show.[62]

Từ ngày 15/1 đến ngày 4/6, Dimash liên tục giành được vị trí top 5 tại MTV USA Friday Livestream.[63] Trong 29 tuần, từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021, Dimash đã có 5 video giành được vị trí số 1 tại USA Friday Livestream và được phát trực tiếp tại thị trường Bắc Mỹ và khắp thế giới.

Tháng 3 và tháng 5 năm 2021, Dimash cho phát hành các video ca nhạc nhằm kỉ niệm ngày thống nhất đất nước Kazakhstan. Các video đó bao gồm: "Golden" (Nauryz); "Amanat"; "Kieli Meken"; "Qairan Elim".[64]

Ngày 02 tháng 4 năm 2021, Dimash cho phát hành đĩa đơn "Be With Me", mang một phong cách âm nhạc hoàn toàn mới (ca khúc lần đầu được ra mắt vào ngày 16 tháng 1 năm 2021).[65]

Ngày 04 tháng 6 năm 2021, Dimash cùng với nhà soạn nhạc người Kazakhstan Renat Gaissin cho phát hành video song tấu nhạc cụ có tên "River of Love ”.

Từ ngày 15 đến 19 tháng 7 năm 2021, Dimash tham dự đại hôi âm nhạc thường niên Slavic Bazaar tại Minsk, Belarus với tư cách thành viên của hội đồng ban giám khảo và là ca sĩ khách mời.

Từ ngày 19 đến 25 tháng 08 năm 2021, Dimash tham dự sự kiện thường niên New Wave tại Sochi, Nga với tư cách là thành viên ban giám khảo và là ca sĩ khách mời. Tại đây, anh đã cho ra mắt 3 bài hát mới. Trong đó Stranger và Ave Maria là sự hợp tác giữa anh cùng nhà soạn nhạc Igor Krutoy, bài hát còn lại là Fly Away được sáng tác bởi Edilzhan Gabbasov.

Ngày 28 tháng 09 năm 2021, Dimash tham dự Liên hoan phim sinh viên quốc tế Bắc Kinh với tư cách là ca sĩ khách mời, đánh dấu sự trở lại của anh trên thị trường âm nhạc Trung Quốc sau gần 2 năm vắng bóng do đại dịch Covid-19.

Tháng 11 năm 2021, 2 ca khúc của Dimash là Fly Away và Be with me xuất hiện trong bảng xếp hạng Billboard Top 10 ca khúc được nhắc đến nhiều nhất trên Twitter.[66][67]

Ngày 28 tháng 11 năm 2021, Dimash tham dự Tokyo Jazz Festival và lần đầu thể hiện ca khúc Ikanaide của Toji Tamaki bằng tiếng Nhật. Màn trình diễn của anh đã được chính người viết lời của bài hát – ngài Goro Matsui dành lời khen ngợi.[24]

Ngày 06 tháng 12 năm 2021, Dimash vinh dự là một trong ba người được nhận giải thưởng “Đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa” (“For Merits in the field of culture”) của giải thưởng quốc gia “30 years – 30 names” được tổ chức nhân dịp kỉ niệm 30 năm ngày độc lập của đất nước Kazakhstan vào ngày 16/12.[68]

Ngày 12 tháng 12 năm 2021, Dimash tham dự Lễ bế mạc Liên hoan phim Quốc tế Con đường Tơ lụa lần thứ 8 tại Phúc Châu, Trung Quốc. Tại đây, Dimash trình diễn solo ca khúc “I miss you” (я скучаю по тебе) và hát cùng với Chang Shilei ca khúc “The universe will witness” (天地鉴).[69]

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, Dimash cho phát hành video ca nhạc Omir Oter (Life is short) bằng tiếng Kazakh. Ca khúc lần đầu được ra mắt tại Dimash Digital Show vào ngày 16 tháng 01 năm 2021.[70]

Quãng giọng và phong cách

[sửa | sửa mã nguồn]

Dimash Kudaibergen được nhiều người công nhận với quãng giọng cực kỳ rộng. Quãng giọng của anh ấy trải dài 5 quãng 8 và 10 bán âm [71], tính từ E2 - nốt thấp nhất anh có thể hát bằng giọng ngực[72], đến C6 - nốt cao nhất của giọng pha[73], tiếp đến là F#6 - nốt cao nhất khi hát bằng giọng óc[74] và cuối cùng là D8 - nốt cao nhất mà anh ấy có thể hát bằng giọng sáo cũng là nốt cao nhất mà Dimash có thể hát từng được ghi nhận.[75]

Ngoài ra, Dimash còn sử dụng vocal fry để đạt được các nốt dưới E2[76] trong các bài hát của mình và nốt thấp nhất từng được ghi nhận ở quãng giọng này là F#1[74]. Tuy nhiên, vocal fry lại không được tính vào quãng giọng nên đây là lý do khiến nhiều người nhầm lẫn rằng Dimash có quãng giọng 6 quãng 8 nhưng thực tế chỉ là 5 quãng 8 và 10 bán âm.

Dimash Kudaibergen đã hát và thử nghiệm ở nhiều thể loại âm nhạc. Thể loại âm nhạc chính mà anh ấy đang theo đuổi hiện tại là classical crossover.[77][78] Ngoài ra, Dimash cũng hát nhạc cổ điển[79][80], pop[6][81], dân ca[82] và world music[83]. Anh ấy cũng kết hợp sử dụng nhiều yếu tố âm nhạc, phong cách và kỹ thuật thanh nhạc của nhiều thể loại khác nhau[84], bao gồm jazz[85][85], rock[86][87], RnB, nhạc kịch[5][88], và rap.[89]

Dimash cũng được biết đến với khả năng sử dụng giọng sáo[90][91] và khả năng hát bằng full head voice.[90][92]

Các lĩnh vực khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Người mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]

Dimash đã làm người mẫu cho các tạp chí LifestyleFashion cũng như nhiều hãng thời trang khác[93]. Anh cũng đã xuất hiện trên các trang của bìa tạp chí Men's health[94], Southern Metropolis[94], Starbox[95], Easy[96], L'Officiel Hommes[97], Ivyplume[98], Chic[99], Chicteen, Elle[100] và Esquire[101]. Ngoài ra, Dimash cũng xuất hiện trong loạt ảnh của các tạp chí Cosmopolitan[102], OnlyLady[103] và Esquire[104], đồng thời cũng có mặt trong các video thời trang của Elle Shop[105] và Cosmopolitan[106].

Diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Dimash từng tham gia diễn xuất trong một số chương trình của Trung Quốc như Fanfan Boyfriend năm 2017[36] và Phantacity vào năm 2018[107]. Đầu năm 2020, anh cùng nhạc sĩ Igor Krutoy và các nghệ sĩ Nga khác tham gia diễn xuất vở nhạc kịch "1001 nights or the Territory of love" ("1001 ночь, или Территория любви) được phát sóng trong đêm giao thừa tại Nga. Cũng trong năm 2020, Hiệp hội sáng tạo "CTO", được giải mã là "Cool, Creative, Association" được ra mắt tại lễ kỷ niệm của chị gái của nhà soạn nhạc Alla Krutoy. Và để vinh danh cô, Dimash cùng Igor Krutoy tham gia tái hiện lại 2 bộ phim ngắn của Mark Zakharov "The Formula of Love" và "Ivan Vasilyevich Changes His Profession" do Timur Bekmambetov sản xuất[108][109].

Các cuộc thi âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Dimash Kudaibergen được biết đến như người khởi xướng cho cuộc thi âm nhạc quốc tế dành cho trẻ em "Baqytty Bala" (Happy Child)[110][111]. Cuộc thi lần đầu tiên được tổ chức năm 2018 tại Aktobe, Kazakhstan với 20 trẻ em đến từ 5 nước khác nhau tham dự. Dimash cũng xuất hiện với vị trí là thành viên ban giám khảo trong nhiều cuộc thi, bao gồm Bala Dausy[33], Slavic Bazaar năm 2018 và 2021, và là giám khảo khách mời trong chương trình Thanh nhập nhân tâm mùa 1 (Supervocal) của Trung Quốc[33].

Giải thưởng và thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]
Cuộc thi
Ngày Cuộc thi Địa điểm Kết quả
Tháng 2 - Tháng 3 năm 2019 Cuộc thi The World's Best của CBS Talent Hollywood, CA, United States Rút lui tại vòng bán kết[112]
Tháng 1 - Tháng 4 năm 2017 Chương trình The Singer 2017 do đài truyền hình Hồ Nam tổ chức Trường Sa, Trung Quốc Giải nhì[34]
13/07 - 19/07 năm 2015 Lễ hội âm nhạc quốc tế Slavic Bazaar Vitebsk, Belarus Quán quân[32]
Ngày 19 - 07 - 2013 Lễ hội quốc tế dành cho những "Người biểu diễn trẻ" Meikin Asia Cholpon-Ata, Kyrgyzstan Quán quân[27][28]
Ngày 09 - 09 - 2012 Cuộc thi quốc tế dành cho những "Người biểu diễn trẻ" Oriental Bazaar Yalta, Ukraine Giải nhất[26]
Ngày 20 - 05 - 2012 Cuộc thi của Đảng Cộng hòa dành cho những "Người biểu diễn dưới 30 tuổi" Zhas Kanat Astana, Kazakhstan Quán quân[25]
Năm 2010 Lễ hội quốc tế Sonorous Voices of Baikonur Baikonur, Kazakhstan Giải nhất[1]
Năm 2000 Cuộc thi Aynalayin Aktobe, Kazakhstan Giải nhất (hạng mục piano)[1]
Giải thưởng
Ngày Sự kiện Địa điểm Giải thưởng
25/12/2020 Giải thưởng quốc gia dành cho Nhân vật được yêu thích nhất Nur-Sultan, Kazakhstan "Hình tượng văn hóa của năm"[113]
29/06/2020 Sina Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Nghệ sĩ nước ngoài được yêu thích nhất của năm"[114]
23/04/2020 Annual ZD Awards Moscow, Nga "Bài hát cover của năm" cho màn trình diễn "Love is like a dream" ("Любовь, похожая на сон") của Dimash Kudaibergen (sáng tác bởi Igor Krutoy và bản gốc được thể hiện bởi Alla Pugacheva)[115]
03/03/2020 Giải thưởng Ticketon hàng năm trong lĩnh vực Văn hóa, Nghệ thuật và Thể thao Almaty, Kazakhstan "Pop Concert của năm" cho solo concert "Arnau" của Dimash Kudaibergen[116]
18/01/2020 Giải thưởng quốc gia dành cho Nhân vật được yêu thích nhất Nur-Sultan, Kazakhstan "Hình tượng văn hóa của năm"[117]
11/01/2020 JSTYLE China Attitude Trend Setting Awards Pingyao, Trung Quốc "Nam ca sĩ xuất sắc nhất của năm"[118]
26/12/2019 10th DoNews RenRen Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Ca sĩ nước ngoài được yêu thích nhất của năm"[119]
07/12/2019 Chương trình Gala "Bài hát của năm" Moscow, Nga "Ca sĩ của năm"[120]

"Giải thưởng dành cho nhà soạn nhạc Igor Krutoy, người viết lời Lilia Vinogradova và ca sĩ Dimash Kudaibergen cho "Olimpico" (Ogni Pitera) - một trong những bài hát được yêu thích nhất năm 2019"[121]

"Giải thưởng dành cho nhà soạn nhạc Igor Krutoy, nhà thơ Mikhail Gutseriev và ca sĩ Dimash Kudaibergen cho "Know" ("Знай") - một trong những bài hát được yêu thích nhất năm 2019"[122]

05/12/2019 Giải thưởng âm nhạc quốc gia của Nga "Victoria" Moscow, Nga "Giọng ca xuất sắc nhất của năm cho hạng mục nhạc cổ điển"[123][124]

Giải thưởng đặc biệt dành cho "Nghệ sĩ mới của năm"[123][124]

16/12/2018 The Silk Road Cohesion Awards Thượng Hải, Trung Quốc "Ca sĩ có tầm ảnh hưởng nhất của năm"[125]
01/12/2018 Chương trình Gala "Bài hát của năm" Moscow, Nga "Giải thưởng dành cho nhà soạn nhạc Igor Krutoy, nhà thơ Mikhail Gutseriev và ca sĩ Dimash Kudaibergen cho "Love of tired swans" ("Любовь уставших лебедей") - một trong những bài hát được yêu thích nhất năm 2018"[126]
10/02/2018 Top Global Chinese Music Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Ca sĩ được yêu thích nhất của năm"[127]
01/02/2018 Gala Lễ hội mùa xuân "Một vành đai, một con đường" Bắc Kinh, Trung Quốc Giải thưởng "Đóng góp Xuất sắc cho Tình hữu nghị"[128]
27/01/2018 Global Chinese Golden Chart Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Nghệ sĩ xuất sắc nhất của năm"[129][130]
18/01/2018 Weibo Annual Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Sức mạnh âm nhạc mới của năm"[131]
27/12/2017 Golden Mango Star Awards Trường Sa, Trung Quốc "Nam ca sĩ được yêu thích nhất"[132]
21/12/2017 Gala Từ thiện thường niên Beauty Touching Bắc Kinh, Trung Quốc "Ca sĩ quốc tế xuất sắc nhất"[133]
02/12/2017 iQIYI Awards Gala Bắc Kinh, Trung Quốc "Nam ca sĩ được yêu thích nhất"
29/11/2017 Gala Đêm thời trang Times Awaken "Leader of Innovation Time"[134][135] --
14/11/2017 Hollywood Music in Media Awards Hollywood, USA "Best Original Song" hạng mục "Trò chơi điện tử" cho bài hát "Ocean over time" - bài hát chủ đề của trò chơi "Moonblade" (sáng tác bởi Thomas Parisch và thể hiện bởi Dimash Kudaibergen)[136]
27/08/2017 Fresh Asia Music Awards Bắc Kinh, Trung Quốc "Nam ngôi sao nước ngoài xuất sắc nhất"[137]
27/08/2017 Lễ hội âm nhạc quốc tế hằng năm Astana Voice Astana, Kazakhstan "Astana Dausy" (Giọng ca của Astana)[138]
09/08/2017 Lễ hội Chinese Golden Melody Hong Kong "Nam ca sĩ được yêu thích nhất"[139]
20/07/2017 Giải thưởng âm nhạc MTV Global Mandarin Thâm Quyến, Trung Quốc "Ca sĩ nước ngoài được yêu thích nhất"[140]
19/07/2017 Gala âm nhạc Tencent MTV Asia Quảng Châu, Trung Quốc "Ca sĩ nước ngoài được yêu thích nhất "[140]
26/05/2017 Gala âm nhạc OK! magazine Bắc Kinh, Trung Quốc "Ca sĩ được yêu thích nhất của năm"[141]
09/04/2017 Top Chinese Music Awards lần thứ 17 Thâm Quyến, Trung Quốc "Ca sĩ quốc tế được yêu thích nhất"[38][39]
27/03/2017 Chinese Top Ten Music Awards lần thứ 24 Thượng Hải, Trung Quốc "Ca sĩ châu Á xuất sắc nhất"[37]
03/03/2017 Giải thưởng của Tổng thống đầu tiên tại Kazakhstan Astana, Kazakhstan 1 trong những người Kazakhstan vinh dự nhận được giải thưởng này[142]
22/01/2016 Giải thưởng quốc gia dành cho Nhân vật được yêu thích nhất Astana, Kazakhstan "Nghệ sĩ nhạc Pop xuất sắc nhất"[143]
28/12/2015 Nhân vật của năm Astana, Kazakhstan "Ca sĩ của năm"[144]
30/12/2014 Giải thưởng Thanh niên Nhà nước Daryn của Chính phủ Cộng hòa Kazakhstan Astana, Kazakhstan Hạng mục "Sân khấu"[31]
Danh hiệu
Ngày Sự kiện Địa điểm Giải thưởng
06/12/2021 “30 years – 30 names” Kazakhstan “Đóng góp quan trọng trong lĩnh vực văn hóa” (“For Merits in the field of culture”)
12/12/2019 Nghị định của Tổng thống Cộng hòa Kazakhstan Nur-Sultan, Kazakhstan "Lao động tiêu biểu của Kazakhstan" (huy chương và danh hiệu vinh dự vì đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội và văn hóa của đất nước)[145]
11/12/2019 Phiên họp thứ 40 của Maslikhat (nghị viện khu vực) của vùng Aktobe Aktobe, Kazakhstan "Công dân danh dự của vùng Aktobe"[146][147]
29/09/2019 Danh sách 30 người dưới 30 tuổi năm 2019 của Forbes Kazakhstan Kazakhstan 1 trong "30 người dưới 30 tuổi" có tầm ảnh hưởng nhất tại Kazakhstan năm 2019[148]
16/12/2018 Giải thưởng Liên kết Con đường tơ lụa Thượng Hải, Trung Quốc "Đại sứ trẻ của Con đường tơ lụa"[125]
29/09/2018 Danh sách 30 người dưới 30 tuổi năm 2018 của Forbes Kazakhstan Kazakhstan 1 trong "30 người dưới 30 tuổi" có tầm ảnh hưởng nhất tại Kazakhstan năm 2018[149][150]
01/06/2018 Gặp gỡ Chủ tịch của Tổng cục Du lịch Kazakhstan Rashid Kuzembaev Aktobe, Kazakhstan "Đại sứ danh dự của du lịch Kazakhstan"[151]
01/02/2018 Gala Lễ hội mùa xuân "Một vành đai, một con đường" Bắc Kinh, Trung Quốc "Đại sứ hữu nghị" giữa Trung Quốc và Kazakhstan[128]
07/05/2017 Đại sứ quán Trung Quốc tại Kazakhstan Astana, Kazakhstan Nhận bằng khen danh dự về Ngoại giao[152]
26/04/2017 Kỳ họp thứ 25 của Hội đồng Nhân dân Kazakhstan Astana, Kazakhstan Nhận lời chúc từ Tổng thống Kazakhstan[153]
21/02/2017 Chính quyền thành phố Thành Đô Thành Đô, Trung Quốc "Đại sứ danh dự về trải nghiệm văn hóa Trung Quốc"[154][155]
30/12/2016 State Grand Astana, Kazakhstan "Lãnh đạo trong lĩnh vực văn hóa năm 2016"[156]
10/03/2016 Diễn đàn Thanh niên Cộng hòa Aktobe, Kazakhstan Được vinh danh bởi Tổng thống Kazakhstan vì những thành tựu anh đạt được[31]
02/02/2016 Hội đồng Nhân dân Kazakhstan Astana, Kazakhstan Nhận bằng khen danh dự[157]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Album
  • iD (2019)
  • Dimash Qudaibergen and Igor Krutoy (2021)

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d “Как выглядел Димаш Кудайберген до сокрушительной славы (фото) | NUR.KZ”. www.nur.kz (bằng tiếng Nga). 30 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  2. ^ “Димаш Кудайбергенов: биография и личная жизнь” (bằng tiếng Nga). Audiosnur. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  3. ^ a b “Как выглядел Димаш Кудайберген до сокрушительной славы” (bằng tiếng Nga). Nur.kz. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  4. ^ “О Димаше Кудайбергенове рассказали в его родной школе” (bằng tiếng Nga). DKN World News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  5. ^ a b “ГО-го-го, Джозеф” (bằng tiếng Nga). avestnik.kz. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  6. ^ a b “Димаш Кудайберген окончил учебу в КазНУИ” (bằng tiếng Nga). KAZinform. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2020.
  7. ^ “Қазақ ұлттық өнер университеті түлектерінің саны 5 мыңнан асқан” (bằng tiếng Kazakh). BAQ News. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2020.
  8. ^ INFORM.KZ (ngày 19 tháng 6 năm 2020). “Димаш Кудайберген стал магистром в области композиции”. KAZinform (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  9. ^ “Kazakh Pop Singer Dimash Kudaibergen Signs On With US Talent Scouts, Finishes His Master's Degree”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  10. ^ “Димаш Кудайберген: человек-оркестр” (bằng tiếng Nga). Yandex News Russia. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2020.
  11. ^ a b c “Dimash Qudaibergen in the Creators – The Past soundtrack, a sci-fi blockbuster made in Italy” (bằng tiếng Ý). Musical News. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  12. ^ “Димаш домбыра тартуды дәстүрлі түрде үйренді – Жайлау Асылханов” (bằng tiếng Kazakh). KAZinform. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  13. ^ "Рок-звезда": Димаш Кудайберген зажег на барабанах (видео)” (bằng tiếng Nga). NUR Kazakhstan. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  14. ^ “Димаш Кудайбергенов занял второе место в финале Singer-2017” (bằng tiếng Nga). KAZinform. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  15. ^ “Лучший голос планеты Димаш Кудайберген впервые выступит в Минске” (bằng tiếng Nga). Minsk News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  16. ^ “迪玛希:他的歌唱,让中国与哈萨克斯坦的文化更加互联互通” (bằng tiếng Trung). QQ News. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2020.
  17. ^ a b c d e “Announcements of Performers ABU TV Song Festival”. ABU. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  18. ^ “Культура Димаш презентовал новую песню (ВИДЕО)” (bằng tiếng Nga). Arna Press Kazakhstan. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2020.
  19. ^ “Димаш Кудайберген представил саундтрек на китайском языке (ВИДЕО)” (bằng tiếng Nga). New Times Kazakhstan. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  20. ^ "Совершенство!": Димаш исполнил на итальянском языке композицию Крутого в Сочи (ВИДЕО)” (bằng tiếng Nga). New Times Kazakhstan. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  21. ^ “Певец Димаш Кудайберген встретился с президентами Казахстана и Узбекистана” (bằng tiếng Nga). Central Asian Media News. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  22. ^ “Димаш Кудайберген и Андреа Бочелли спели Besame mucho” (bằng tiếng Nga). AI News Kazakhstan. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  23. ^ “Димаш спел украинскую песню на концерте в Киеве” (bằng tiếng Nga). Khabar Kazakhstan. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  24. ^ a b “Dimash Performs a Song in JapaneseInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 28 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  25. ^ a b INFORM.KZ (21 tháng 5 năm 2012). “«Золото» XXI конкурса молодых исполнителей «Жас канат-2012» досталось Димашу Кудайбергену из Актобе”. www.inform.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  26. ^ a b “«Восточный базар-2012» в Ялте. Белорус Саша Немо и казах Димаш Кудайбергенов разделили первое место”. Столичное телевидение - СТВ (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  27. ^ a b Бердибаева, Азиза (20 tháng 7 năm 2013). “Победителем иссык-кульского фестиваля «Мейкин Азия» стал казахстанец Димаш Кудайбергенов”. K-News (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  28. ^ a b Иванов, Иван (31 tháng 7 năm 2021). “Завершилась международный фестиваль "Мейкин Азия" (Фоторепортаж)”. КАБАРЛАР - Всегда первый! (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  29. ^ “Триумф певца из Актобе: 180 баллов из 180 возможных”. diapazon.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  30. ^ “https://www.gov.kz/memleket/entities/m.aktobe”. gov.egov.kz (bằng tiếng Kazakh). Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp)
  31. ^ a b c “Правительство Республики Казахстан - О присуждении Государственной молодежной премии «Дарын» Правительства Республики Казахстан в 2014 году”. web.archive.org. 6 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  32. ^ a b “2015 - The International Festival of Arts "Slavianski Bazaar in Vitebsk". web.archive.org. 2 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  33. ^ a b c “Бала Дауысы - Архив "Бала Дауысы". web.archive.org. 21 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  34. ^ a b INFORM.KZ (17 tháng 4 năm 2017). “Dimash finishes second on I am a Singer 2017”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  35. ^ “Димаш исполнил песню «Махаббат бер маған»”. 365info.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  36. ^ a b 1905电影网 (29 tháng 4 năm 2017). “迪玛希择偶标准大公开:像妈妈一样的天使”. ent.sina.com.cn. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  37. ^ a b March 2017, Dmitry Lee in People on 30 (30 tháng 3 năm 2017). “Dimash Kudaibergen wins Best Asian Singer in China's Top Music Awards”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  38. ^ a b “Kazakhstani Singer Wins Chinese GRAMMYs”. caspiannews.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  39. ^ a b “众星齐聚音乐风云榜 迪玛希和欧阳娜娜组CP_娱乐_腾讯网”. ent.qq.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  40. ^ “Dimash - Olympico ~ WorldSkills Kazan 2019”. 28 tháng 9 năm 2019.
  41. ^ “Dimash - Там где живет Любовь (Where Love Lives) ~ WorldSkills Kazan 2019”. 28 tháng 8 năm 2019.
  42. ^ “Mount Emei Music Festival - Dimash”. 29 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ “Celebrate Asian Culture Carnival 亚洲文化嘉年华盛大举办”.
  44. ^ INFORM.KZ (22 tháng 7 năm 2019). “Dimash Kudaibergen performs at Jackie Chan Action Film Week in China”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  45. ^ “Global Star Dimash Kudaibergen ELIMINATED On 'Masked Singer' China”. Talent Recap (bằng tiếng Anh). 5 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  46. ^ “Dimash Qudaibergen – Ogni Pietra [Olympico] ~ 2nd European Games in Minsk”. 22 tháng 6 năm 2019.
  47. ^ “Dimash sing S.O.S in Tokyo, Japan 2019”. 23 tháng 11 năm 2019.
  48. ^ INFORM.KZ (16 tháng 1 năm 2020). “Dimash Kudaibergen performs soundtrack for Jackie Chan's new film”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  49. ^ “Dimash Qudaibergen nella colonna sonora di Creators - The Past, kolossal Sci-Fi made in Italy -”. 9 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  50. ^ “Dimash Kudaibergen's European Tour Gets Cancelled, New Dates to be Announced”. old.qazaqtv.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  51. ^ INFORM.KZ (19 tháng 6 năm 2020). “Kazakhstan's Dimash Kudaibergen signs contract with IPZ”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  52. ^ “На MTV USA вышел клип Димаша Кудайбергена на казахском языке”. www.forbes.kz. 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  53. ^ “Димаш дал интервью MTV USA, где рассказал о любимой музыке и карантине” (bằng tiếng Nga). 12 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  54. ^ INFORM.KZ (10 tháng 2 năm 2021). “Творческие планы в США и песни на испанском: Димаш Кудайберген дал интервью MTV”. www.inform.kz (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  55. ^ November 2020, Aidana Yergaliyeva in Culture on 17 (17 tháng 11 năm 2020). “Dimash Kudaibergen Shares Glimpse Into His Personal Life With Muz TV”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  56. ^ INFORM.KZ (24 tháng 12 năm 2020). “Dimash Kudaibergen's 'I miss you' MV released”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  57. ^ January 2021, Assel Satubaldina in Culture on 19 (19 tháng 1 năm 2021). “Dimash Kudaibergen's Online Concert Attracts Viewers From 100 Countries”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  58. ^ Neeley, Billy D. (ngày 1 tháng 4 năm 1988). “Evaluation of Concrete Mixtures for Use in Underwater Repairs”. Fort Belvoir, VA. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  59. ^ INFORM.KZ (18 tháng 1 năm 2021). “Димаш Кудайберген выступил на мероприятии Sister Cities International”. www.inform.kz (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  60. ^ “Видео выступления Димаша на инаугурации президента США побило рекорды просмотров”. sknews.kz. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  61. ^ “KAZAKHSTAN: KAZAKH POP STAR TO PERFORM AT BIDEN'S 2021 INAUGURATION”. asiamedia.lmu.edu (bằng tiếng Anh). 11 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  62. ^ Ku, Abira; February 2021, yk in Culture on 1 (1 tháng 2 năm 2021). “Kazakh Pop Star Dimash Kudaibergen Debuts Official Music Video for "Golden" Album (Video)”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  63. ^ “Клип Димаша Across Endless Dimensions занял первое место на MTV USA” (bằng tiếng Nga). 13 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  64. ^ "KIELI MEKEN" published in honor of the Nauryz holidayInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 20 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  65. ^ “Dimash's track "Be With Me" is available on music platformsInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 2 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  66. ^ "Be With Me" on the Billboard chartInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  67. ^ anel (5 tháng 11 năm 2021). “Dimash in the TOP-10 of the Billboard chartInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  68. ^ “Dimash Qudaibergen Received Cultural Merit AwardInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 6 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  69. ^ “Dimash performed at the Silk Road International Film FestivalInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 13 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  70. ^ "Omir Oter": Ode to LifeInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 15 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  71. ^ “Dimash Kudaibergen | The Range Planet”. therangeplanet.proboards.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  72. ^ “]The Love Of Tired Swans – Dimash Kudaibergen in Kremlin -Eng sub”. 6 tháng 5 năm 2021.
  73. ^ “Dimash You Are My Superstar 12 21 2019 BTV”. 6 tháng 5 năm 2021.
  74. ^ a b “Dimash Kudaibergen SLAYING in EVERY REGISTER!!”. 6 tháng 5 năm 2021.
  75. ^ “Gakku Дауысы 2017 Димаш Құдайбергенов – Ұмытылмас күн”. 6 tháng 5 năm 2021.
  76. ^ “Dimash Kudaibergen | The Range Planet”. 6 tháng 5 năm 2021.
  77. ^ “The World's Best' Vocalist Dimash Kudaibergen is Coming to NY”. 22 tháng 3 năm 2020.
  78. ^ “Секреты пения Димаша раскрыла музыкальный эксперт из США”. 3 tháng 4 năm 2020.
  79. ^ “Tickets to Dimash Kudaibergen's concerts in Germany, Czech Republic available online”. KAZinform. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  80. ^ “Димаш привел в восторг вокального тренера из США: "Он точно знает, чего хочет публика" (bằng tiếng Nga). 365 Info Kazakhstan. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2020.
  81. ^ “Meet Dimash, Central Asia's Biggest Pop Star”. BBC UK. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2019.
  82. ^ “Первый сольный альбом Димаша стал платиновым за 37 секунд” (bằng tiếng Nga). Kazakh TV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  83. ^ “882 经典Live 腾格尔、迪玛希神仙合唱,一开口我就被秒杀了” (bằng tiếng Trung). Sohu China. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  84. ^ “Dimash Kudaibergen: conheça o cantor do Cazaquistão com cada vez mais fãs no Brasil” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Extra. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2020.
  85. ^ a b “В новом образе: Димаш Кудайберген выступит на знаменитом фестивале джаза в Токио” (bằng tiếng Nga). KAZinform. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2020.
  86. ^ “Димаш снова покорил китайскую публику: Казахстанец спел легендарные композиции группы Queen (ВИДЕО)” (bằng tiếng Nga). New Times Kazakhstan. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  87. ^ “Gli uomini cantano quando le parole non bastano … (Intervista a Valy Elle)” (bằng tiếng Ý). Passion for Music Italia. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  88. ^ “Сундет Байгожин и Димаш Кудайбергенов выступили дуэтом на проекте "Большая опера" (bằng tiếng Nga). Tengri News. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  89. ^ “Fãs brasileiros de cantor do Cazaquistão tentam burlar regras da internet para ouvir lançamento” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Extra. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2020.
  90. ^ a b “Реакция на вокал Димаша Кудайбергена вокального тренера Энди Дэвиса” (bằng tiếng Nga). Yandex News Russia. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  91. ^ “Dimash Kuadaibergen – Kazakhstan Superstar is coming to London”. Music Trespass. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  92. ^ “迪玛希的唱功到底有多牛逼” (bằng tiếng Trung). KK News China. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  93. ^ “腾讯视频-中国领先的在线视频媒体平台,海量高清视频在线观看”. m.v.qq.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  94. ^ a b “Men's Health. Димаш әлемге әйгілі журналдың мұқабасына шықты (фото)”. kaz.365info.kz (bằng tiếng Kazakh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  95. ^ "Умереть не встать": Димаш Кудайберген появился на обложке журнала Starbox (фото) | NUR.KZ”. www.nur.kz (bằng tiếng Nga). 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  96. ^ INFORM.KZ (19 tháng 5 năm 2017). “Chinese popular magazine devotes several page spreads to Dimash”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  97. ^ “迪玛希,音乐必须有 | 封面明星_表演”. www.sohu.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  98. ^ “IVYPLUME街拍╳迪玛希┃进口小哥哥的斩女装备”. zixun.html5.qq.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  99. ^ “迪玛希小资CHIC十二月刊”. www.douban.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  100. ^ “独白 | 迪玛希:天赋使然,勤奋所致”. www.sohu.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  101. ^ “Dimash on Esquire”.
  102. ^ “Dimash on Cosmopolitan”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  103. ^ “Dimash on OnlyLady”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  104. ^ “Where and how to buy Esquire magazine with Dimash on the coverInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  105. ^ “独白 | 迪玛希:天赋使然,勤奋所致”. 搜狐视频. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  106. ^ “Черно-белым имидж-клипом поделился с фанатами Димаш Кудайберген”. baigenews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  107. ^ “迪玛希《幻乐之城》献荧屏初吻 酷狗音乐重磅首发_李沁”. www.sohu.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  108. ^ “Dimash's filming in Russia in 2020 (1)”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  109. ^ “Dimash's filming in Russia in 2020 (2)”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  110. ^ INFORM.KZ (2 tháng 6 năm 2018). “Первый международный фестиваль-конкурс «Baqytty Bala» начался в Актобе”. www.inform.kz (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  111. ^ “ЗАВЕРШИЛСЯ ФЕСТИВАЛЬ - КОНКУРС "BAQYTTY BALA" — Сайт телеканала «Aqtóbe»”. aktobetv.kz. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  112. ^ cartermatt (14 tháng 3 năm 2019). “Dimash Kudaibergen quits The World's Best before final round”. CarterMatt (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  113. ^ anel (26 tháng 12 năm 2020). “Dimash received the "People's Favorite 2020" statuetteInformation Portal DimashNews”. Information Portal DimashNews (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  114. ^ tengrinews.kz (29 tháng 6 năm 2020). “Димаш Кудайберген признан самым популярным зарубежным артистом в Китае”. Главные новости Казахстана - Tengrinews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  115. ^ “Игорь Крутой о Димаше: «Он вам не t.A.T.u.»”. www.mk.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  116. ^ “Кто главный в казахстанской индустрии развлечений: премия Ticketon Award подвела итоги 2019 года”. Esquire (bằng tiếng Nga). 6 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  117. ^ INFORM.KZ (18 tháng 1 năm 2020). “Победителей премии «Народный любимец» наградили в Нур-Султане”. www.inform.kz (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  118. ^ tengrinews.kz (12 tháng 1 năm 2020). “Димаш Кудайберген получил еще одну награду в Китае”. Главные новости Казахстана - Tengrinews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  119. ^ tengrinews.kz (26 tháng 12 năm 2019). “Димаш Кудайберген получил награду в Китае”. Главные новости Казахстана - Tengrinews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  120. ^ “Димаша Кудайбергена признали певцом года в России”. Димаша Кудайбергена признали певцом года в России. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  121. ^ ХРАБРЫХ, Ольга (9 tháng 12 năm 2019). “Димаш Кудайбергенов признан лучшим певцом в России”. Новостной портал «Экспресс К» (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  122. ^ “Димаш Кудайберген — «Знай» («Песня года 2019»)”. Продюсерский центр поэта Михаила Гуцериева (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  123. ^ a b “Объявлены лауреаты премии «Виктория-2019» - musicpremia.ru”. www.musicpremia.ru. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  124. ^ a b “Zivert и Димаш объявлены вехами времени”. www.mk.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  125. ^ a b INFORM.KZ (17 tháng 12 năm 2018). “Dimash awarded as Singer of the Year at Silk Road Cohesion Awards 2018”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  126. ^ “Михаил Гуцериев признан поэтом номер один на «Песне года»”. www.intermedia.ru (bằng tiếng Nga). 4 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  127. ^ February 2018, Dana Omirgazy in Culture on 15 (15 tháng 2 năm 2018). “Kazakh singer named most popular singer of the year in China”. The Astana Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  128. ^ a b “高清视频在线观看 - 芒果TV”. w.mgtv.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  129. ^ INFORM.KZ (28 tháng 1 năm 2018). “Dimash Kudaibergen wins at Global Golden Chart Awards in China”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  130. ^ “迪玛希抱恙清唱《荆棘王冠》 李荣浩被自己表情逗笑”. ent.ifeng.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  131. ^ “Dimash at Weibo Annual Awards 2018”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  132. ^ “丝路新观察-迪玛希在中国获得年度最受欢迎男歌手奖”. www.siluxgc.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  133. ^ “凤凰网”. www.ifeng.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  134. ^ “Dimash at Times Awaken L'Officiel Fashion Night Gala 2017”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  135. ^ “微博”. m.weibo.cn. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  136. ^ “Dimash Kudaibergen's original song for video game wins at 2017 HMMA”. lenta.inform.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  137. ^ 新浪娱乐 (27 tháng 8 năm 2017). “迪玛希获亚洲新歌榜2017年度最佳海外艺人”. ent.sina.com.cn. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  138. ^ tengrinews.kz (28 tháng 8 năm 2017). “Татуировка с Лободой и оговорка Исекешева. Как прошла первая премия "Астана дауысы". Главные новости Казахстана - Tengrinews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  139. ^ INFORM.KZ (10 tháng 8 năm 2017). “Dimash wins Golden melody awards in Hong Kong”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  140. ^ a b “迪玛希一路领跑MTV 凭超凡实力斩获两项大奖_综艺_央视网(cctv.com)”. ent.cctv.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  141. ^ 网易 (26 tháng 5 năm 2017). “迪玛希获"挚爱燃爆男歌手" 水蓝西服展致命魅力”. www.163.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  142. ^ “Димаша Кудайбергена наградили на родине”. KTK (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  143. ^ tengrinews.kz (28 tháng 12 năm 2015). “Определились победители премии "Народный любимец". Главные новости Казахстана - Tengrinews.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  144. ^ “ЖЫЛ АДАМЫ – 2015”. qazaquni.kz | Қазақ Үні газетінің ресми сайты | Қазақстан жаңалықтары (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  145. ^ “Тәуелсіздік күні қарсаңында бірқатар азамат мемлекеттік наградалармен марапатталды — Қазақстан Республикасы Президентінің ресми сайты”. Akorda.kz (bằng tiếng kz). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  146. ^ “Актюбинский областной маслихат - Пресс-релиз по очередной ХХХХ сессии областного маслихата”. aktobeoblmaslihat.kz. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  147. ^ “Димаш Құдайберген «Ақтөбе облысының құрметті азаматы» атанды”. lenta.inform.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  148. ^ Еркебулан, Айша (5 tháng 11 năm 2019). “Знакомьтесь с лидерами будущего. Forbes Kazakhstan представляет рейтинг «30 моложе 30»”. www.forbes.kz. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  149. ^ Stan. “Димаш Құдайберген Forbes журналының тізіміне кірді - Қазақстан жаңалықтары | STAN.KZ”. Stan.kz - бүгінгі жаңалықтар, соңғы жаңалықтар (bằng tiếng Kazakh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  150. ^ Еркебулан, Айша (29 tháng 10 năm 2018). “Самые амбициозные и успешные казахстанцы нового поколения: 30 моложе 30”. www.forbes.kz. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  151. ^ “Димаш Кудайберген стал послом туризма Казахстана”. www.caravan.kz (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  152. ^ “哈萨克斯坦歌手迪玛希应邀到中国驻哈大使馆做客--国际--人民网”. world.people.com.cn. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  153. ^ INFORM.KZ (26 tháng 4 năm 2017). “Nursultan Nazarbayev gives his blessing to Kazakh singer Dimash Kudaibergenov”. www.inform.kz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  154. ^ “Термин «Феномен Димаша» появился в Китае”. Ақ Жайық (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  155. ^ “《和歌手在一起》迪玛希荣获 "体验大使"[1]- 中国日报网”. cn.chinadaily.com.cn. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  156. ^ "ПРИЛОЖЕНИЕ к распоряжению Президента Республики Казахстан от ngày 30 tháng 12 năm 2016 года № 139". Truy cập ngày 31 tháng 07 năm 2021.
  157. ^ “Нам пора воспитывать в себе победителей”. Время (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]