Bước tới nội dung

Epinephelus polyphekadion

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Epinephelus polyphekadion
Cá trưởng thành
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Serranidae
Chi: Epinephelus
Loài:
E. polyphekadion
Danh pháp hai phần
Epinephelus polyphekadion
(Bleeker, 1849)
Các đồng nghĩa
Danh sách
    • Serranus polyphekadion Bleeker, 1849
    • Serranus goldmanni Bleeker, 1855
    • Serranus microdon Bleeker, 1856
    • Serranus dispar Playfair, 1867

Epinephelus polyphekadion là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1849.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh polyphekadion được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: polús (πολύς; "nhiều") và có lẽ phăkoeidḗs (φᾰκοειδής; "hình đậu lăng, thấu kính"), hàm ý đề cập đến những đốm nhỏ, màu nâu sẫm nằm sát nhau trên đầu, lưng và hai bên thân loài cá này.[2]

Loài bị đe dọa

[sửa | sửa mã nguồn]

Do có giá trị kinh tế và thương mại cao, đặc biệt là vùng Đông Nam Á, mà E. polyphekadion đang bị đánh bắt quá mức, hầu hết là nhắm vào các đàn sinh sản. Do đó, E. polyphekadion được xếp vào mức Loài sắp nguy cấp trong Sách đỏ IUCN.[1]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

E. polyphekadion có phân bố rộng phần lớn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, xuất hiện ở cả Biển Đỏ, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrierđảo Lord Howe (Úc), đông nam đến đảo Rapa Iti.[1]

E. polyphekadion ưa sống ở những vùng biển mà san hô phát triển mạnh trên các ám tiêu và trong đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu tới 60 m.[1]

Chiều dài lớn nhất được biết đến ở E. polyphekadion là 90 cm.[3] Cá có màu nâu phủ đầy các đốm màu sẫm. Đầu và thân có các vệt loang màu sẫm chồng lên các đốm. Có đốm đen lớn nổi bật trên cuống đuôi. Nhiều đốm trắng nhỏ trên vây, rải rác một số ít trên đầu và thân. Cá con có cặp đốm đen ở mỗi bên mõm và một đốm đen ở rìa của màng gai lưng thứ 2 và thứ 3.[4]

Số gai vây lưng: 11; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 47–52.[4]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của E. polyphekadion là các loài họ Cua bơi và cá nhỏ hơn, đôi khi ăn cả ốc biểnnhuyễn thể.[3] Dữ liệu từ rạn san hô Great Barrier cho thấy tuổi thọ trung bình tối đa của loài này là 44 năm.[5] Cá mú nghệ được cho lai tạp với E. polyphekadion trong nuôi trồng thủy sản.[6]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

E. polyphekadion là loài có giá trị trong nghề cáĐông Nam Á và một số vùng của Ấn Độ Dương. Loài này thường được xuất khẩu để cung cấp cho hoạt động buôn bán có trụ sở tại Hồng Kông. Hiện tại, các nước xuất khẩu chính là Philippines và Indonesia.[1] Thịt của chúng đôi khi gây ngộ độc ciguatera.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Rhodes, K.; Choat, J.H.; Sadovy, Y.; Myers, R.; To, A.; Ma, K.; Samoilys, M.; Suharti, S.; Law, C. & Amorim, P. (2018). "Epinephelus polyphekadion". Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T61339A100553967. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T61339A100553967.en. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2025.{{Chú thích tập san học thuật}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf, biên tập (2024). "Order Perciformes (part 5)". The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Epinephelus polyphekadion trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b c P. C. Heemstra (2022). "Epinephelidae". Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (quyển 3) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 67-68.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  5. ^ Amos Mapleston; Leanne M. Currey; Ashley J. Williams; Rachel Pears; Colin A. Simpfendorfer; Ann L. Penny; Andrew Tobin; David Welch. (2009). "Comparative biology of key inter-reefal serranid species on the Great Barrier Reef" (PDF). Project Milestone Report.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Chung, Arthur; Schunter, Celia (2025). "Distinct resource utilization by introduced man-made grouper hybrid: an overlooked anthropogenic impact from a longstanding religious practice". Reviews in Fish Biology and Fisheries. Quyển 35 số 1. tr. 391–407. doi:10.1007/s11160-024-09907-6. ISSN 1573-5184.