Epomis circumscriptus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Epomis circumscriptus
E. circumscriptus ăn một con nhái cây, Hyla savignyi
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Lớp (class)Insecta
Bộ (ordo)Coleoptera
Họ (familia)Carabidae
Phân họ (subfamilia)Licininae
Tông (tribus)Chlaeniini
Chi (genus)Epomis
Loài (species)E. circumscriptus
Danh pháp hai phần
Epomis circumscriptus
Duftschmid, 1812

Epomis circumscriptus là một loài bọ đất bản địa ở Cổ Bắc giới, Cận ĐôngBắc Phi.[1]

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này phân bố ở hầu hết các vùng ở Châu Âu, Trung Á và Trung Đông ( cụ thể là:Albania, Armenia, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Ai Cập, Pháp, Gruzia, Hy Lạp, Hungary, Israel, Ý, Jordan, Kazakhstan, Bồ Đào Nha, Romania, Nga, Slovakia, Tây Ban Nha, Tajikistan, Turkmenistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, và Uzbekistan.[1][2][3])

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Bọ cánh cứng trưởng thành có màu xanh biển óng kim loại với ánh tím, với viền vàng cam nổi bật trên elytra và chủ yếu là chân và râu màu vàng. Thân dài 18 đến 22,5 mm (0,7 đến 0,9 in).[4]

Ấu trùng đạt chiều dài cơ thể lên đến 20 mm, chúng có màu trắng hoặc vàng với các mảng màu đen và cam. Giống như nhiều ấu trùng bọ cánh cứng đất, chúng dài ra với hai phần mở rộng (Urogomphi) ở phần cuối phía sau. Chúng có các hàm dưới dạng móc kép đặc trưng. Ấu trùng chỉ ăn động vật lưỡng cư, chúng dụ động vật lưỡng cư bằng cách thực hiện các chuyển động giống như con mồi. Ấu trùng thường có thể trốn tránh đòn tấn công đầu tiên của động vật lưỡng cư bằng cách cảnh giác và sau đó tấn công lại ngay lập tức. Khi động vật lưỡng cư đang ở gần, chúng bám chặt bằng các hàm dưới của mình, chúng hút dịch cơ thể của vật chủ mới và tiến tới nhai da và ăn các mô của nạn nhân. Cuối cùng chúng có thể giết chết vật chủ. Ngay cả khi chúng được đưa vào miệng động vật lưỡng cư ở lần tấn công đầu tiên, chúng vẫn có thể sống sót; Một con ếch non dường như đã phát hiện ra ấu trùng mà nó bắt được một cách khó chịu, không thể nhổ nó ra, nuốt chửng nó, chỉ vài giờ sau nó mới ọc ra, dính đầy chất nhầy nhưng dường như không hề hấn gì. Khi ấu trùng lột xác, chúng rời khỏi vật chủ và cần tìm một con mới. Bọ cánh cứng trưởng thành là những kẻ nhiều loại con mồi, nhưng cũng có thể ăn những loài lưỡng cư lớn hơn nhiều so với chúng.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Wizen, Gil; Drees, Claudia; Gasith, Avital (2012). “Distribution of two Epomis species (Carabidae, Chlaeniini) in Israel, with notes on their habitat” (PDF). Israel Journal of Entomology. 41: 95–106.
  2. ^ “Chlaenius (Epomis) circumscriptus Duftschmid, 1812: 166 - Carabidae”. carabidae.org. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  3. ^ Zohar, Yanai; Noa, Truskanov; Gasith, Avital; Wizen, Gil (2015). “First record of Epomis circumscriptus (Duftschmid, 1812) (Carabidae: Chlaeniini) from the eastern Dead Sea area, Jordan”. Israel Journal of Entomology. 44–45: 1–4.
  4. ^ Trautner Jürgen, & Geigenmüller Katrin (1987). Tiger beetles, ground beetles. Illustrated key to the Cicindelidae and Carabidae of Europe. TRIOPS Verlag.