Gobiopsis liolepis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gobiopsis liolepis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Gobiiformes
Họ (familia)Gobiidae
Chi (genus)Gobiopsis
Loài (species)G. liolepis
Danh pháp hai phần
Gobiopsis liolepis
(Koumans, 1931)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Callogobius liolepis Koumans, 1931
  • Gobiopsis aporia Lachner & McKinney, 1978

Gobiopsis liolepis là một loài cá biển thuộc chi Gobiopsis trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1931.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh liolepis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: leîos (λεῖος; “mượt mà”) và lepís (λεπίς; “vảy cá”), hàm ý có lẽ đề cập đến vảy lược bao phủ loài cá này.[1]

Tình trạng phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Gobiopsis aporia đã được công nhận là một danh pháp đồng nghĩa của G. liolepis.[2]

Phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ biển Andaman, G. liolepis có phân bố trải dài về phía đông đến đảo New Guinea, ngược lên phía bắc tới Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc.[2] Ở Việt Nam, loài này được biết đến tại vịnh Nha Trang (dưới danh pháp G. aporia).[3]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở G. liolepis là 4,4 cm (thuộc về mẫu lectotype).[2]

Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 9; Số tia vây ngực: 20–21, Số vảy đường bên: 36–42.[2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Gobiiformes: Family Gobiidae (d-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  2. ^ a b c d Delventhal, Naomi R.; Mooi, Randall D. (2013). Callogobius liolepis Bleeker, a senior synonym of Gobiopsis aporia Lachner and McKinney (Teleostei: Gobiidae: Gobiopsis)” (PDF). Zootaxa. 3764 (5): 571–580. doi:10.11646/zootaxa.3764.5.5. ISSN 1175-5334. PMID 24870626.
  3. ^ Đỗ Thị Cát Tường; Nguyễn Văn Long (2015). “Đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ Cá bống trắng (Gobiidae) trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 21 (2): 124–135.