Khách sạn "Cracovia"

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khách sạn "Cracovia"
Hotel „Cracovia"
Map
Thông tin chung
Tọa độ50°03′31″N 19°55′26″E

Khách sạn "Cracovia" (tiếng Ba Lan: Hotel „Cracovia") là một khách sạn theo chủ nghĩa hiện đại tọa lạc tại số 1 đại lộ Thống chế Ferdynand Foch, Kraków, Ba Lan. Khu phức hợp bao gồm khách sạn "Cracovia" và rạp chiếu phim "Kijów" được ghi danh vào Sổ đăng ký các di tích bất động trong tỉnh Małopolskie của Viện Di sản Quốc gia Ba Lan.[1] Trước năm 2011, khách sạn thuộc về Tập đoàn khách sạn Orbis. Từ năm 2016, khách sạn trở thành tài sản của Bảo tàng Quốc gia ở Kraków.[2]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Khách sạn "Cracovia" được xây dựng từ năm 1960 đến năm 1965, dựa theo bản thiết kế của kiến ​​trúc sư Witold Cęckiewicz. Lễ khai trương của khách sạn diễn ra vào ngày 22 tháng 6 năm 1965. Sau khi hoàn thành, khách sạn "Cracovia" là khách sạn dài nhất (150 mét) và là một trong những khách sạn lớn nhất và hiện đại nhất ở Ba Lan. Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Thể chất và Du lịch Trung ương lúc bấy giờ là Włodzimierz Reczek đã đặt tên cho khách sạn.[3]

Miêu tả[sửa | sửa mã nguồn]

Khách sạn là một tòa nhà năm tầng có 510 giường trong 309 phòng và 9 dãy phòng. Khách sạn cũng bao gồm một nhà hàng, một quán cà phê, một phòng hội nghị, một sòng bạc cho khách tùy nghi sử dụng, một khu phức hợp bán lẻ lớn ở tầng trệt, 22 chỗ để xe, một bãi đậu xe rộng rãi và rạp chiếu phim "Kijów".[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Narodowy Instytut Dziedzictwa: Rejestr zabytków nieruchomych – województwo małopolskie. 2020-09-30. [dostęp 2018-01-14].
  2. ^ Marek Kozubal. Muzeum Narodowe urośnie. „Życie Krakowa i Małopolski (dodatek do dziennika 'Rzeczpospolita')", s. R6, 9 stycznia 2017.
  3. ^ a b Zenon Błądek: Dzieje krajowego hotelarstwa od zajazdu do współczesności: fakty, obiekty, ludzie. Poznań-Warszawa: Palladium Architekci, 2003, s. 42. ​ISBN 83-89284-02-2​.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Małgorzata I. Niemczyńska: Hotel Cracovia - sentymentalny adres, Gazeta Wyborcza Kraków z 15 czerwca 2012, s. 6