Lưu Trấn Vũ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lưu Trấn Vũ
刘镇武
Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Nhiệm kỳ
Tháng 6 năm 2007 – Tháng 7 năm 2009
Tổng Tham mưu trưởngTrần Bỉnh Đức
Tư lệnh Quân khu Quảng Châu
Nhiệm kỳ
Tháng 1 năm 2002 – Tháng 6 năm 2007
Tiền nhiệmĐào Bá Quân
Kế nhiệmChương Thấm Sinh
Tư lệnh Đơn vị đồn trú PLA tại Hồng Kông
Nhiệm kỳ
1997 (chuẩn bị từ năm 1994) – 1999
Tiền nhiệmChỉ huy mới
Kế nhiệmHùng Tự Nhân
Thông tin cá nhân
Sinhtháng 8, 1945 (78 tuổi)
huyện Nam, tỉnh Hồ Nam
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Trung Quốc
Phục vụ trong quân đội
Thuộc Trung Quốc
Phục vụQuân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Năm tại ngũ1961–2009
Cấp bậc Thượng tướng

Lưu Trấn Vũ (tiếng Trung: 刘镇武; sinh tháng 8 năm 1945) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Ông từng là Tư lệnh đầu tiên của Đơn vị đồn trú PLA tại Hồng Kông và sau đó giữ chức vụ Phó Tư lệnh, Tư lệnh Quân khu Quảng Châu và Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[1][2]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu Trấn Vũ sinh tháng 8 năm 1945 tại huyện Nam, tỉnh Hồ Nam. Tháng 7 năm 1961, ông nhập ngũ vào PLA, phục vụ ở Trung đoàn 370, Sư đoàn 124 thuộc Quân đoàn 42 (từ năm 1985, cải tổ lại thành Tập đoàn quân 42). Tháng 6 năm 1964, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc.[1]

Bắt đầu với vai trò một chiến sĩ bình thường, Lưu Trấn Vũ đã thăng tiến qua các cấp bậc của Quân đoàn 42, trở thành Tham mưu trưởng vào tháng 8 năm 1983. Năm 1987, ông đã học khoa học quân sự tại Đại học Quốc phòng PLA. Tháng 12 năm 1989, ông trở thành Phó Tư lệnh Tập đoàn quân 42 và đến tháng 7 năm 1992, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Tập đoàn quân 42. Tháng 7 năm 1990, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng.[1]

Năm 1994, khi Đơn vị đồn trú PLA tại Hồng Kông được hình thành để chuẩn bị cho việc chuyển giao chủ quyền đối với Hồng Kông, Lưu Trấn Vũ được bổ nhiệm làm Tư lệnh đầu tiên.[1] Trong tư cách này, ông tham quan các căn cứ và cơ sở quân sự của Hồng Kông vào tháng 7 năm 1996, đi cùng với Thiếu tướng Bryan Dutton, chỉ huy sắp thôi việc của các lực lượng Anh Quốc hải ngoại tại Hồng Kông.[3] Ngay sau khi bàn giao Hồng Kông từ Anh sang Trung Quốc ngày 1 tháng 7 năm 1997, Lưu Trấn Vũ được thăng quân hàm Trung tướng vào cuối tháng, ở cấp cao hơn những người tiền nhiệm người Anh.[4] Ông chỉ huy khoảng 15.000 binh sĩ trong đơn vị đồn trú, hầu hết trong số đó là người có căn cứ ở bên kia biên giới tại Trung Quốc đại lục.[5] Tháng 9 năm 1997, ông trở thành Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XV.[1]

Tháng 3 năm 1999, Lưu Trấn Vũ trở thành Phó Tư lệnh Quân khu Quảng Châu, giám sát đơn vị đồn trú PLA tại Hồng Kông. Tháng 1 năm 2002, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu Quảng Châu và đến tháng 11 năm 2002, ông được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVI.[1] Tháng 6 năm 2004, ông được thăng quân hàm Thượng tướng.[1]

Tháng 6 năm 2007, Lưu Trấn Vũ được chuyển đến Bắc Kinh làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc,[2] một chức vụ ông giữ cho đến tháng 7 năm 2009. Ông đã nghỉ hưu khỏi sự nghiệp quân sự của mình và được bổ nhiệm vào tháng 2 năm 2010 với tư cách là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Ngoại sự của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa XI (2008-2013) (tức Quốc hội Trung Quốc).[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h “Liu Zhenwu” (bằng tiếng Trung). National Chengchi University. ngày 5 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
  2. ^ a b Bo, Zhiyue (2010). China's Elite Politics: Governance and Democratization. World Scientific. tr. 114. ISBN 978-981-283-673-1.
  3. ^ Cheng, Joseph Y. S. (1997). The Other Hong Kong Report 1997. Chinese University Press. tr. xii. ISBN 978-962-201-778-8.
  4. ^ Chow, Larry Chuen-ho (1998). The Other Hong Kong Report 1998. Chinese University Press. tr. 7. ISBN 978-962-201-829-7.
  5. ^ Todd Cowell; Law Siu Lan (ngày 16 tháng 5 năm 1997). “Centers of Power”. Asiaweek.