Bước tới nội dung

Lệnh thư

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lệnh thư
令書
Sắc phong có năm 1765 trong niên đại Cảnh Hưng, thể hiện các chữ Hán được viết bằng chữ Lệnh thư 令書.
Thể loại
Chữ tượng hình
Thời kỳ
Nhà Lê trung hưng đến thế kỷ 19, ra hiện tại (sử dụng hạn chế)
Các ngôn ngữHán văn, tiếng Việt
Hệ chữ viết liên quan
Nguồn gốc
Bài viết này chứa các biểu tượng ngữ âm IPA trong Unicode. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để có hướng dẫn thêm về các ký hiệu IPA, hãy xem Trợ giúp:IPA.


Lệnh thư (chữ Hán: 令書)[1][2] là kiểu viết chữ Hánchữ Nôm trong thư pháp Việt Nam. Đây là kiểu chữ viết được phát triển lần đầu tiên vào thời Lê trung hưng.[3] Lúc đầu sử dụng chủ yếu làm sắc lệnh chính thức của hoàng đế và các quan chức trong triều đình.[4] Nhưng sau đó lại được sử dụng rộng rãi trên khắp Việt Nam. Chữ viết này không tìm thấy ở bất kỳ quốc gia nào khác cũng sử dụng chữ Hán như Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản.[5]

Lệnh thư
Tên tiếng Việt
Chữ Quốc ngữLệnh thư
chữ Lệnh
Nam tự
chữ Nam[6]
Hán-Nôm令書
𡨸令
南字
𡨸南

Đặc trưng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chữ viết này được xác định bởi các móc hướng lên sắc nét khác biệt. Nó có các nét được hợp nhất tương tự như kiểu chữ Thảo. Mặc dù chữ viết đã được hợp nhất các nét và viết nhanh chóng nhưng vẫn dễ đọc như chữ Khải. Phạm Đình Hổ viết trong tiểu luận Vũ trung tùy bút (雨中隨筆), chữ Lệnh thư bắt chước kiểu chữ Thảo 𡨸草, được miêu tả là bắt chước chuyển động của một màn múa kiếm.[7] Nhưng chữ Lệnh thư dưới đây có những thay đổi trong đó các nét được viết trôi chảy bằng những dấu móc đặc biệt. Ông giải thích thêm rằng có vẻ như chữ viết cũng phát triển những ảnh hưởng từ chữ Thảo và các chữ viết khác được sử dụng truyền thống trong thư pháp Trung Quốc.[8]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chữ viết xuất hiện lần đầu tiên vào thời Lê trung hưng. Dưới thời Quang Hưng 光興 (Lê Thế Tông), Phạm Đình Hổ cũng miêu tả chữ viết thời đó (1599) khoa trương hơn với các nhân vật mang hình dáng 'đầu cong, chân quẹo'.[9]

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nguyễn, Sử (2017). Lịch sử thư pháp Việt Nam. NXB Thế giới. tr. 151.
  2. ^ Nguyễn, Linh Giang (16 tháng 2 năm 2023). “Độc đáo thư pháp sắc Lê”. Truyền hình Thái Nguyên.
  3. ^ Nguyễn, Chí Việt (4 tháng 10 năm 2018). “Chế bản chữ sắc phong thời Lê”. Thư pháp Dụng Phẩm.
  4. ^ Ngô 吳, Giáp Đậu 甲豆 (1911). Trung học Việt sử toát yếu 中學越史撮要. Ấn tại Hàng Bồ phố gia 印在行𤿤庯家.
  5. ^ Trần, Linh (9 tháng 1 năm 2009). “Sắc xuân và thư pháp”. Báo Tổ Quốc.
  6. ^ Phạm, Đình Hổ (2012). Cảo thơm trước đèn - Vũ trung tùy bút. NXB Trẻ. tr. 15. Từ đời Lê trung hưng trở về sau, những người đi học theo nghề khoa cử viết theo lối chữ khải đời cổ, lại ngoa ngắt thêm bớt, làm sai đi đến nửa phần, gọi là lối chữ nho. Còn những giấy tờ ở chốn cửa công thì dùng riêng một lối chữ nam
  7. ^ Phạm, Đình Hổ (2012). Cảo thơm trước đèn - Vũ trung tùy bút. NXB Trẻ. tr. 15. Lối chữ thảo thì bắt chước vũ kiếm mà quằn quèo.
  8. ^ Phạm, Đình Hổ (2012). Cảo thơm trước đèn - Vũ trung tùy bút. NXB Trẻ. tr. 15. Kẻ học giả đua theo, mới hơi thay đổi lối chữ Nam đi để cầu hợp mắt người bấy giờ, có khi viết một chữ mà nét chấm là lối chữ triện, móc là lối chữ lệ, phẩy mác là lối chữ chân,
  9. ^ Nguyễn, Sử (2017). Lịch sử Thư pháp Việt Nam. NXB Thế giới. tr. 151. Chữ viết thời kỳ này càng có xu hướng khoa trương hơn, có thể thấy rõ đạc điểm "đầu cong, chân quẹo" như cách mô tả của Phạm Đình Hổ.