NGC 1980

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
NGC 1980
Hình ảnh DSS của cụm mở NGC 1980, nằm ở mũi phía nam của Tinh vân Lạp Hộ, và tinh vân NGC 1982 (M43) nằm ở rìa phía bắc của nó
Dữ liệu quan sát
Xích kinh05h 25m 26.0s[1]
Xích vĩ−05° 54′ 36″[1]
Đặc trưng vật lý
Xem thêm: Cụm sao phân tán, Danh sách cụm sao phân tán
Tinh vân Orion M42 với NGC 1980 ở bên phải (bên phải là phía nam)

NGC 1980 (còn được gọi là OCL 529, Collinder 72The Lost Jewel of Orion [2]) là một cụm sao mở trẻ kết hợp với một tinh vân phát xạ trong chòm sao Lạp Hộ. Nó được phát hiện bởi William Herschel vào ngày 31 tháng 1 năm 1786.[3] Kích thước rõ ràng của nó là 14 × 14 phút cung và nó nằm xung quanh ngôi sao Iota Orionis trên mũi phía nam của chòm sao Orion.[4]

Herschel đã thực hiện quan sát đầu tiên về cụm sao được gọi là WH V 31 vào ngày 31 tháng 1 năm 1786, nhưng ông có thể quan sát thấy nó trong các nghiên cứu về sao đôi vào ngày 20 tháng 9 năm 1783.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “NED results for object NGC 1980*”. NED. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  2. ^ O'Meara, Stephen James (2007). Deep-Sky Companions: Hidden Treasures. Cambridge University Press. tr. 155–157. ISBN 9780521837040.
  3. ^ a b “NGC 1980 (= OCL 529), the ί Orionis Nebula”. cseligman. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  4. ^ “Star Cluster Near Orion Nebula Revealed in Telescope Views”. Space.com. ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.